Thursday, December 8, 2011

Chương 3: Chúng tôi phải sống



Những năm sau ngày 30-4-1975, các khu vực quanh chợ và bến xe tại Sài Gòn đều bị giải tỏa. Nhà nước cộng sản cho xây dựng lại những khu chợ mới để bộ mặt thành phố đẹp đẽ hơn. Trước khi có chiến dịch bố ráp, bắt bớ qui mô, rầm rộ, những người cùng khổ bị xua đuổi đi nơi khác. Chúng tôi phải tìm nơi cư trú mới nhưng ở cũng không yên, nay lây lất chỗ này vài đêm mai lang thang chỗ nọ vài tuần, rồi lại dời đi nơi khác không có gì ổn định.

Cuộc sống của những người cùng khổ cũng như loài chim cộng mạng kia.

"Chuyện xưa kể rằng ở xứ Thiên Trúc xa xôi có một loài chim mang tên cộng mạng chi điểu. Suốt đêm ngày chúng nối cánh có nhau, nhưng vì chúng có ba cái đầu nên mang ba ý muốn khác nhau. Trong khi cái đầu này đang ngủ, cái đầu nọ muốn ăn và cái đầu kia lại muốn cất cánh bay cao. Những cái đầu nhìn nhau xa lạ và còn thù ghét nhau. Chúng tự cắn mổ lẫn nhau. Nhưng rồi mùa săn đến, những người thợ săn làm ra những cái bẫy để bắt chúng. Chúng sa vào bẫy, vùng vẫy, gào thét trong tuyệt vọng, rồi nhìn lại nhau và chợt hiểu rằng mặc dù chúng có ba cái đầu nhưng chúng chỉ có một thân mình, một quả tim và một nỗi đau khi bị thương tật. Từ đó chúng nguyện rằng khi thoát được cái bẫy ác độc này, chúng sẽ không con nhìn nhau xa lạ nữa và sẽ mãi nối cánh cùng nhau bay hết cuộc đời còn lại".

Những người cùng khổ tại Việt Nam cũng vậy, họ đã theo đuổi những mục tiêu, những khát vọng, đã khoác lên vai những lý tưởng khác nhau và đã nhìn nhau như thù địch. Tập đoàn lãnh đạo cộng sản hiểu ra điều ấy, đã khôn khéo làm ra những cái bẫy để bẫy dân, và dân chúng hai miền Nam Bắc đã chỉ hiểu ra điều ấy khi đã kiệt lực và đau khổ. Cũng giống như loài chim cộng mạng chi điểu, khi cái đầu này hiểu rằng nỗi đau của cái đầu kia là nỗi đau chung, thì cái bẫy ác độc của chế độ đã giữ chặt đôi chân của chúng mất rồi, chúng ta đã không còn biết xoay sở làm sao để thoát khỏi bàn tay của nhóm thợ săn khôn khéo ấy. Chúng ta phải cầu nguyện ngày nào thoát khỏi ách cộng sản vây trùm, chúng ta sẽ thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau như người ruột thịt, vì chúng ta có chung một thân phận Việt Nam, thân phận những người cùng khổ trong một nước nghèo khó. Chúng ta đã cấu xé lẫn nhau để cho tập đoàn cộng sản rãnh tay ly tán, chia rẽ để rồi tất cả đều bị triệt hạ.

Anh Ba Mỵ đã từ miền Bắc vào Nam tìm kiếm người thân, nhưng không gặp. Anh nhìn đứa con trai nằm co quắp ngủ dưới mái che của ngôi mả cổ mà lòng buồn rười rượi. Năm 1954, chủ nghĩa cộng sản đã nhuộm đỏ miền Bắc. Vì gia đình anh ở tận làng quê xa, Lỗ Xá, huyện Kinh Môn, nên đã không chạy thoát ra được Hải Phòng để được chuyến tàu di cư cuối cùng chở những dân tị nạn cộng sản rời Vịnh Hạ Long vào Nam hưởng cuộc sống tự do. Anh đã ở lại để nghe lòng tan nát, ở lại để chứng kiến những cuộc đấu tố kinh hoàng.

Chế độ cộng sản miền Bắc đã làm áp lực buộc người làm công đấu tố chủ đất, học trò chống lại thầy dạy, bạn bè rình rập nhau như người xa lạ, người có học thức và giàu có bị coi là kẻ thù của "giai cấp". Có nhiều người vợ đầu hôm tay ấp bỗng quay ra tố cáo người chồng. Tệ hại hơn nữa, chính con cái đứng ra tố cáo cả cha mẹ. Họ làm vậy để tỏ ra trung thành với Đảng, nhưng để được cái gì ngoài số phận được làm tôi đòi. Anh Ba Mỵ ngơ ngác nhìn những người thân quen xưa hò hét khản cổ, đi theo đám biểu tình hoan hô những lãnh tụ cộng sản. Tới lượt cha anh bị kết tội là Việt gian hạng nặng vì nói được tiếng Tây, gia đình anh bị tịch thu hết ruộng đất, mà ruộng đất có rộng là bao, vỏn vẹn chỉ ba sào. Thật là buồn, người ta đã không từ bỏ một thủ đoạn nào để triệt tiêu những gia đình bị coi là địa chủ.

Chủ nghĩa cộng sản không muốn dừng lại trên miền đất Bắc, tập đoàn lãnh đạo cộng sản phát động cuộc xâm chiếm miền Nam. Đã có những năm tháng, quân đội Hoa Kỳ, đồng minh cũ của miền Nam, cho máy bay ra oanh tạc miền Bắc. Tuy không dám nói ra, trong lòng anh mơ hồ nhen nhúm nỗi vui mừng và thỏa mãn. "Máy bay ơi, bỏ bom cho khéo nhé kẻo trúng phải nhà dân. Hãy bỏ cho trúng ổ bọn chọc gậy xuống ao không biết rét". Ấy, lại gặp bọn quỷ quyệt. Chúng núp sau lưng dân, đưa dân ra chịu đựng. Chúng tìm cách kích động nhân dân căm thù "giặc lái" (phi công) để rêu rao trước dư luận quốc tế bị Mỹ ném bom. "Ma Ma, Phật Phật", làm sao dân chúng phân biệt được, ai "giải phóng" ai. Nhưng khổ nỗi, trời đất đã không chiều theo lòng người, kẻ ác lại thắng. Miền Nam chẳng những đã không cứu được miền Bắc ra khỏi cảnh đời lầm than mà lại còn bị miền Bắc choàng lên đầu màn trời đen tối. "Thôi rồi, hỏng cả rồi", anh Ba Mỵ than. Anh cùng Cả Yến, một người bạn chí cốt, rủ nhau vào Nam, trước để tìm người thân đã di cư hồi 1954, sau là tìm cách định cư luôn.

Nhưng nhà nước cộng sản không muốn người dân nghèo miền Bắc hiểu được đời sống thật sự của dân chúng miền Nam. Họ đã lập ra những chốt gác để ngăn chặn dân ở cầu Bến Hải, vĩ tuyến thứ 17. Dân không qua được cầu thì họ lội sông, nhưng như thế là phạm luật. Mặc kệ, anh Ba Mỵ và anh Cả Yến cùng với đứa bé chờ đêm xuống, tìm khúc sông vắng lội qua bên kia bờ... Việt Nam tươi sáng.

Vào đến Sài Gòn, hai anh không tìm thấy người thân. Hỏi nhiều chỗ, hai anh mới biết là người thân của hai anh đã vượt biển sang những nước tự do tị nạn cộng sản. Bơ vơ giữa dòng đời, hai anh đứng giữa chợ trời Sài Gòn, góc đường Hàm Nghi, không biết phải làm gì nhưng cả hai không còn tha thiết với quê hương miền Bắc nữa. Hai anh tự hỏi về để làm gì nữa, về để một người làm việc bằng hai, bằng ba mà ăn thì chỉ bằng một nửa. Những món đồ tùy thân cuối cùng của hai anh được đem ra bán. Hai anh tìm đường đi về xóm nghĩa địa.

Đã từ lâu, nhà cầm quyền cộng sản muốn lập lại trật tự trên đường phố vì những người sống vật vờ đầu đường xó chợ làm "xấu" chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều quá. Từ lâu nhà nước muốn làm mạnh tay, loại trừ những thành phần lang thang ngoài đường phố, nhưng họ sợ mang tiếng với dư luận. Nay đất nước mở cửa ra với thế giới bên ngoài, những người không nhà không cửa, sống lang thang gây rối trật tự an ninh, nhà nước càng có thêm lý do chỉnh đốn lại thành phố. Vì vậy việc mua bán, sự đi lại cũng như chỗ ngủ qua đêm của anh em phế binh và người cùng khốn bị để ý, tất cả đều bị xua đuổi và bắt bớ giam cầm với những lý do không rõ rệt. Vào thời ấy chỉ còn một chỗ ở qua đêm ít ai để ý, đó là những nghĩa địa bỏ hoang, nơi bị "đời" bỏ quên. Chính vì đời bỏ quên nên những người bị đời bỏ quên cũng đã tìm về đây xum họp. Không ở yên với người sống thì tạm ở chung với người chết, thế là "cộng đồng nghĩa địa" được thành hình. Nó qui tụ tất cả những người mất nhà mất cửa không nơi cư ngụ, những người từ vùng kinh tế mới trở về, những anh em phế binh, cô nhi, quả phụ, những người sống dở chết dở và những người nghèo khó miền Bắc trốn vào Nam.

Vào trong nghĩa địa rồi, hai anh mới biết là họ không phải là những người đầu tiên. Nơi đây đã có sẵn một binh đoàn người nghèo khó từ miền Bắc vào Nam trước họ tìm cơ hội sống. Giữa những người cùng khổ, sự chia sẻ dễ dàng hơn vì tất cả đều là nạn nhân của chế độ. Họ sinh con đẻ cái tại chỗ, không có giấy khai sinh. Ai bệnh đau thì chỉ biết nằm rên hừ hự, chẳng may bị chết thì được chôn tại chỗ, bên cạnh một mộ phần nào đó, kể cũng tiện. Bà con rửa ráy, nấu cơm, ăn ngủ và tiểu tiện ngay trên các phần mộ bỏ hoang. Có điều lạ là tỷ lệ sinh sản tại đây hơi cao, bà mẹ nào cũng bồng trên tay một trẻ sơ sinh, có lẽ vì không biết làm gì giữa đêm khuya nên "thú vui" vợ chồng là chuyện gối chăn. Tại đây, anh Ba Mỵ cho "cộng đồng nghĩa địa" biết là anh và đứa con trai quyết định "định cư" tại nghĩa địa này, chờ Cả Yến về Bắc bán nhà xong mang cả gia đình vào Nam tị nạn. Anh nói:

- Dẫu sao thì đối với miền Nam này nhà nước còn có sự giữ kẽ về chính trị, chưa có thể xiết chặt hơn miền Bắc đâu. Hãy còn kẽ hở để lách vào mà sống.

Anh bày cho anh em xóm nghĩa địa những cách "làm ăn" qua mặt bọn "nó". Anh đồng ý với cộng đồng đau khổ này là "tất cả chỉ là sự lừa dối kéo dài, không nên nghe theo những gì chính sách nói, phải làm ngược lại".

- Nếu như thế thì còn gì nữa! - một người đàn bà buồn bả thở dài.

Mọi người đã ngủ cả rồi, những gì anh Ba Mỵ nói ám ảnh chị mãi. Chồng chị là anh Mạc, phế binh bộ binh Sư Đoàn 25 cụt một chân và bị lao phổi nặng, đi bán nhang chẳng may băng qua đường lúc trời mưa thịì bị trượt té, một chiếc xe hàng chạy ngang thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Anh Mạc mới chết cách đây vài tháng. Đứa con gái, 5 tuổi, nằm ngủ vô tư quá. Chị ngước mắt nhìn lên vầng trăng giữa bầu trời đen tối, ánh trăng dẫu sáng cho mấy cũng không át được mây che lấp các vì sao. Biển đêm mênh mông quá, những ánh sao nhấp nháy đưa chị về vùng kỷ niệm của những ngày tuổi thơ. Những đêm trăng rằm Trung Thu, chị và những nhỏ bạn rước đèn. Ờ nhỉ, ngày ấy, đèn lồng của mình hình ngôi sao đẹp quá. Còn ngày nay cũng là ngôi sao nhưng sao nó vàng chóe thế này, lại còn như thỏa mãn "cười" nham nhở giữa mảnh vải màu máu đỏ lòm. Những lá cờ màu đỏ giăng kín các phố phường như chiếm hết không gian của chị và đứa con nhỏ. Chị ho khậm khẹt, không hiểu sao chị quá sợ màu đỏ quá. Nó giống như màu máu hòa trong nước miếng mà chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho. Một buổi chiều kia, chị Liên ghé qua khu nghĩa địa rủ chị Mạc đi mua củi. Chị Liên nói:

- Đi buôn như thế lời nhiều lắm, đi xe lửa chui không tốn tiền vé, cứ hễ gần đến ga xe lửa chạy chầm chậm lại thì mình tuôn củi xuống rồi nhảy theo. Công an bảo vệ ga không sao bắt được vì nhiều người cùng làm vậy, nhất là các trẻ em nhanh nhẹn hơn. Dạo này chợ trời Hàm Nghi bị bố ráp dữ quá, nhà nước đang có chiến dịch làm đẹp thành phố, chính tôi đã nhìn thấy một bà già tóc bạc bị "bọn nó" túm lấy bao quần áo quẳng lên xe chở về trụ sở. Bà già hoảng hốt, quẩn cả trí, vội quỳ xuống chắp tay lạy "bọn nó", nhưng "bọn nó" lại hung hăng nhìn bà già bảo là "mỉa mai hả". Bắt giữ, tịch thu đồ đạc có lợi hơn là nhận những lời van xin của mấy bà già, vì hàng hóa sau đó được đem về trụ sở để chúng lục tìm những món gì thích đem về làm của riêng hoặc kêu "tà lọt" mang ra chợ bán lại chia nhau tiền. Bọn chúng cứ lạnh lùng truy bắt tiếp những người mua bán, lấn chiếm long lề đường, mình không còn đường nào khác là phải đi buôn.

Uống xong ngụm nước lạnh, chị Liên nói tiếp:

- Nhưng buôn than theo đường xe đò không còn an toàn nữa. Chị Loan và chị Mai vừa bị bắt ở trạm kiểm soát Sông Bé, hai chị tiếc số hàng nên ở lại năn nỉ. Đêm đến, hai chị nằm ngủ, đám dân quân chỉ đáng tuổi em các chị đã mò vào hạnh họe nọ kia, rồi tên "xếp" mặt non choẹt gọi chị Mai bằng "em" và đề nghị "biết điều" thì nó sẽ tha. Hai chị vừa sợ vừa bối rối vì số hàng ở trong tay chúng nên... "chiều" nó. Thỏa mãn xong, nó vừa lui ra thì gần một chục thằng khác nhào vô thay phiên "làm thịt" hai chị. Chúng ra vào quần quật, đùa giỡn thể xác hai chị suốt đêm. Đến tờ mờ sáng, bọn chúng làm bộ tịch thu "lấy lệ" một nửa số hàng rồi cho hai chị đi về không quên gởi kèm theo những lời trêu ghẹo tục tỉu.

Chị Liên cười cười kể tiếp:

- Về đến Sài Gòn, chị Mai hồng hộc thở ra: "Tụi nó... tồi quá!". Chị Loan an ủi: "Kệ nó, cái gì kia còn mất nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ", rồi hai chị ra sông Bạch Đằng tắm rửa mình mẫy. Chị Loan nói với bạn: "Tụi nó làm dữ quá, coi nè "của" tui sưng phồng lên đỏ hỏn, rát quá!".

Kể xong, chị Liên kết luận:

- Phải làm mau đi thôi, từ từ rồi "chúng nó" sẽ kiểm soát tới đường xe lửa, lúc ấy có muốn đi buôn cũng không được nữa đâu.

Rồi chị nói nhỏ:

- Ở ga xe lửa Sài Gòn đó, cứ mỗi chiều tối có mấy thằng cha mua hai ổ bánh mì kẹp thịt và hai bọc trà đá ở nách, kẹp tấm nệm đan bằng cói. Họ nháy nhó, rủ rê mấy người đàn bà không còn làm ăn gì được nữa ngủ qua đêm với họ.

Nhưng chị dặn thêm:

- Muốn làm gì thì làm nhưng đừng có ra chỗ đó nghen. Tụi mình phải nương tựa lẫn nhau mà sống. Đi buôn thì cần có bạn, đi bán cần có bè, nhưng nếu không có ai đi chung thì tôi sẽ đi một mình với thằng con trai. Tôi không để cho nó chui xuống cống kiếm cá nữa đâu, hồi hộp lắm!

Thế là chị Mạc quyết định theo chị Liên và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Mỗi chuyến đi kéo dài ba ngày khiến chị đuối sức, đứa con gái nhỏ 5 tuổi không phụ giúp được gì lại còn vướng bận những lúc nhảy tàu làm chị Nguyệt bực mình. May nhờ đứa con trai của chị Liên phụ giúp nên cũng đỡ được phần nào. Có lần chị Nguyệt bàn với chị Liên đi mua bán riêng, chị sằn sàng bỏ vốn cho chị Liên đi chung:

- Liên à, con Mạc hình như nó bị ho lao, vợ chồng thì dễ lây lang. Mày có thấy đôi vai của nó bị co rút lên không?

- Dạ thấy. Tội nghiệp, nó cũng ráng lắm mà.

- Mày lo cho mày đi. Thời buổi này nhân đạo là tự sát đó. Với lại mày thấy đó, tao đâu có vốn gì nhiều, nếu chậm chạp lỡ bị bảo vệ bắt một cái là hết vốn luôn.

Chị Liên ngẫm nghĩ: bà Nguyệt này thật ra đâu có tử tế gì, chẳng qua là bả nhờ có thằng Đức (con trai chị Liên) lanh lẹ nên mới chịu bỏ vốn ra đấy chứ, như vậy bà ấy lời thêm một "công". Hình như đoán hiểu suy nghĩ của chị Liên nên bà Nguyệt tỏ vẻ "thương" thằng bé. Bà thường rủ thằng nhỏ: "Đi ăn bún, con!". Đi thêm vài chuyến nữa thì chị Liên và bà Nguyệt buộc chị Mạc phải đi riêng. Chị Liên vỗ về bạn:

- Có gì thì chị cũng biết cách rồi đó, nếu không vốn nhi)ều thì buôn ít một chút cũng tạm đủ cho hai mẹ con sinh sống. Ráng lên!

Thấy mặt chị Mạc lộ vẻ lo lắng, chị Liên trấn an:

- Bà Nguyệt không chịu đi chung, thì chị cứ mua bán riêng cùng với tôi. Nếu như có chận bắt đột xuất cần phải tuôn củi và nhảy tàu thì thằng Đức con tôi dắt con Hoa giùm nhảy cho, đừng có lo.

Hai người quả phụ hẹn nhau là như thế, nhưng khi có cuộc chận bắt xảy ra thì ở trên các toa xe hỗn loạn lắm. Chị Mạc vừa quăng được hai bó củi xuống đám cỏ thì những bạn hàng khác cũng nhốn nháo cả lên, họ xô đẩy và chen lấn, tranh nhau tuôn củi xuống. Đứa con gái chị bị những bó củi quăng trúng chân khóc ré lên. Chị Mạc lúng túng, vừa sợ mất củi vừa sợ mất con, chị quay lại nhìn những bó củi, rồi quay lại nhìn con. Sao thế nhỉ, cái gì trong lòng chị thế này, ánh mắt con chị như sao trời nhấp nháy, tuổi thơ của chị đây mà. Chị chết điếng trong lòng rồi đưa tay ôm đứa con, nước mắt chị chảy ra, không biết là vì tiếc củi hay vì thương con, có lẽ cả hai. Bà Nguyệt và chị Liên đã nhảy xuống đường rày, nhìn chị Mạc la lên ơi ới:

- Ném củi xuống mau, bảo vệ tới kìa!

Đứa con trai chị Liên muốn đu người lên đoàn tàu để phụ chị Mạc ném củi xuống nhưng không kịp nữa, đoàn tàu từ từ đi vào sân ga, đám bảo vệ ùa ra, những con buôn ôm vội mớ hàng hóa bỏ chạy. Chị Mạc ôm con vào lòng nhìn người ta ôm những bó củi của chị chạy đi. Thế là mất hết. Chị bước xuống thềm sân ga, trước mặt là bóng tối.

Những ngày sau đó, người đàn bà gầy gộc ra đi. Đôi mắt chị Mạc thụt sâu vào hóc mắt, chị không biết làm gì nữa. Chút vốn liếng dành dụm được để đi buôn bay theo mây khói. Những cái quần, cái áo bán dần đi để cầm cự giữa chợ đời không còn nữa.

Chị Liên và đứa con trai đi theo chị Nguyệt vài chuyến nữa rồi rủ nhau đi Phan Thiết mua cá biển về bán ở Sài Gòn. Mùa cá đến rồi, nếu trời thương thì... cuộc đời đỡ khổ. Nhưng có một dạo bảo vệ xe lửa truy đuổi gắt gao, nhiều bạn hàng bị tịch thu hết cả hàng hóa. Chị Liên và chị Nguyệt nhờ có thằng Đức nhanh nhẹn nên thoát được nhiều chuyến hàng. Một hôm, trời mưa tầm tả, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Để cứu lấy món hàng, thằng Đức và lũ nhỏ leo chuyền ra ngoài cửa sổ những toa xe. Một đứa tuột tay bị cuốn vào những bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát trên đường ray. Xe lửa về đến ga Thủ Đức rồi mà chị Liên vẫn chưa thấy đứa con trai đâu. Chị hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa thấy thằng Đức leo lên mui xe lửa trốn thoát được bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau chị Liên mới biết rằng khi xe lửa qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị thanh sắt đánh vỡ đầu rớt xuống đường ray, thân xác bây giờ không biết được chôn cất nơi đâu. Chị Liên thơ thẩn, chị Nguyệt mất cả vốn không còn dám đi buôn nữa. Chị Mạc rời khu nghĩa địa ra ngồi ở bùng binh Chợ Sài Gòn đưa mắt nhìn qua bên kia đường.

Bên kia đường là sân ga. Trời đã tối, cửa hàng ăn uống quốc doanh đã đóng cửa, những sinh hoạt về đêm bắt đầu. Đủ mọi hạng người tụ tập về đây để ngủ qua đêm. Những người tài xế nằm dài trên tấm nệm cói trải trên nền xi măng để cho những người đàn bà tới đấm bóp, giác hơi xoa nắn, thư giãn gân cốt. Tại một góc của nhà ga là chỗ để khách lỡ đường ngủ đêm chờ tàu. Ở đó, có một số phụ nữ vì hoàn cảnh sống khổ sở đến ngồi chờ khách. Họ không biết làm gì vì không có đồng vốn nào cả, nhờ có chút nhan sắc nên khi đêm về họ lấy "thân" làm vốn. Nhưng vào thời buổi khó khăn, những người đàn ông cũng không rộng rãi cho lắm, họ trở nên thô bạo và không còn sòng phẳng như trước. Cái giá để trả cho một cuộc tình qua đêm là một khúc bánh mì, khoảng hơn gang tay, kẹp những lát thịt xắt mỏng (giá 500 đồng, bằng 1/4 dĩa cơm), một bọc ny lông trà đá và một tấm nệm cói để hai người đắp chung. Chỉ người phụ nữ nào may mắn lắm mới được trả bằng tiền mặt, nhưng cũng không là bao.

Vào mỗi buổi chiều, những người đàn ông ngồi trên băng ghế đá ở công viên, bùng binh, bến xe buýt để lựa chọn bạn... tình qua đêm. Bên cạnh họ để sẵn hai ổ bánh mì, hai bọc trà đá và tấm nệm cói để cho các "bạn tình" biết mà tìm đến. Khi đến với nhau, tuy không nùói ra nhưng họ ngầm hiểu là chỉ có họ với nhau mà thôi, nhưng vào khoảng nửa đêm có khi có thêm dăm ba người đàn ông khác xà vào "ăn ké", dĩ nhiên là miễn phí. Người đàn bà khốn khổ kia chỉ biết im lặng chịu đựng vì có kêu cứu cũng không ai đến can thiệp.

Có những đêm anh em phế binh chúng tôi nằm ngủ ở một góc nhà ga chờ sáng theo tàu lửa đi bán nhang xa, nhìn những tấm nệm phập phồng dưới ánh đèn vàng vọt, tiếng thở hồng hộc và tiếng cựa quậy lục đục của người đàn ông kèm theo tiếng rên rỉ của người đàn bà, rồi tiếng chửi mắng tục tằn của người đàn ông không thỏa mãn, chúng tôi hiểu rằng trong bước đường cùng những người sống không lý tưởng vùi dập lẫn nhau như những con vật.

Nhưng cũng có những người đàn bà đem bán "thân xác" mà không có người mua. Đó là những người đánh lỡ mất tuổi thanh xuân, những bà quả phụ cô đơn. Cuộc sống khắc nghiệt ở hè phố làm mất đi chất tươi trẻ trên nét mặt, nụ cười, họ già đi mau chóng, thân hình khô héo quắt queo như trái táo tàu. Dù có xoa lên mặt chút hương phấn nhưng họ cũng không còn hấp dẫn ai. Chị Nguyệt cũng vậy, hết vốn đi buôn chị ra ngồi ở bùng binh cùng với chị Loan. Có những người đàn ông mua bán ở chợ trời, tuổi chỉ đáng con chị, biết chị cần có miếng ăn để sống cũng gọi chị bằng "em". Chị không lấy đó làm giận mà còn "mừng". Mừng là vì chị vẫn còn "giá trị". Đã hai đêm rồi, mặc dầu chị đã xin của chị Loan một chút phấn để xoa lên mặt và cũng đã đi lại mời mọc một số người đàn ông nhưng không ai chịu chia sẻ với chị ổ bánh mì kia.

Tối nay trời mưa lạnh lẽo, hình như có bão hay sao ấy. Chị Mạc cảm giác như có kim châm ở trong bao tử, sự co thắt của các cơ thịt làm chị run rẩy, xương có vẻ như dòn ra, cử động kêu lụp cà lụp cụp. Cơn đau bao tử làm chị khó chịu, nước lạnh uống vào cứ sôi óc ách. Tay chân chị xê dịch khó khăn. Chị buồn ngủ và ảo giác càng đến với chị nhiều hơn, chị cố xua đuổi mà không được. Chị biết mình sắp mê đi nhưng bản năng sinh tồn thúc chị bước sang bên kia. Bên kia đường là vùng đất cấm, ai sa chân vào rồi thì khó bước ra.

Cũng ở bên kia đường, xéo góc với nhà ga xe lửa là cửa hàng ăn uống quốc doanh, con gái chị đang chờ chực khách ăn xong, nó chạy vào ăn húp những gì còn sót lại. Chị Mạc mơ màng nghĩ đến những tô hủ tiếu. "Không biết thực khách bên ấy có ăn thêm bánh mì không nhỉ?", chị tự hỏi. Nếu có ăn thêm bánh mì thì nước lèo sẽ chẳng còn lại bao nhiêu, con chị lấy gì mà húp. Phần lớn khách vào cửa hàng ăn uống quốc doanh là giới bình dân, lao động, họ thường chấm bánh mì vào nước hủ tiếu để cho thêm no.

Nghĩ tới bánh mì, cơn đói thúc hối chị Mạc nhìn vào sân ga. Ở đây có những người đàn ông cặp nách hai ổ bánh mì, tay cầm hai bọc ny lông trà đá và tay kia cầm tấm nệm cói. Tấm nệm cói khiến chị Mạc liên tưởng đến trời đêm, những cơn mưa dai dẵng và mùi vị của khúc bánh mì kẹp những lát thịt ba rọi mới thơm ngon làm sao. Chị không còn quan tâm đến đứa con gái ở bên kia cửa hàng ăn uống nữa, chị nghĩ về mình. Cảm giác xấu hổ chỉ thoáng qua, chị nhớ lại câu nói của chị Loan: "Kệ nó, cái gì kia còn mất, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ". Người ta như thế nào kia mà còn nghĩ đến quyền lợi riêng, phản bội cả quê hương, mình chỉ là một phụ nữ nghèo hèn còn gì nữa đâu để mà gìn giữ. Chị Mạc muốn được sống như những phụ nữ kia, được cho ăn và được cho tình.

Chị Hạnh cũng vậy, chị đã im lặng. Chị không làm được như chị Loan, mặc dù chị thừa nhận chị Loan nói đúng. "Những người đàn ông thua trận cả rồi", chồng chị là một cựu lính Dù chết trong trại cải tạo. Chị Hạnh không còn vốn liếng để đi buôn than nữa nhưng vẫn không sao bước nổi "sang bên kia đường". Chị vẫn thường hồi tưởng đến anh, những lần về phép trên chiếc jeep, bộ quần áo kaki rằn ri, những đôi giày bốt đờ sô bóng loáng. Cuộc sống của anh thật quá hào hùng. Không, chị không thể bước "sang bên kia đường". Những kỷ niệm xưa giữ chân chị lại bên này đường. Chị Hạnh nói với chị Mạc bên kia đường là những mùi mồ hôi, mùi rượu đế và những lời bỡn cợt sổ sàng của những người quá tầm thường so với chồng chị. Nói xong chị Hạnh buồn bã nhìn xuống lề đường, rồi quay người bước đi.

"Những kỷ niệm đó là của chị Hạnh, còn mình có còn gì nữa để mà hồi tưởng?", chị Mạc tự biện hộ thầm. Ngoài những mất mát chất chồng, những thiếu thốn thường nhật, những tai họa chờ chực, chị cố nhớ về những buổi chiều anh Mạc đi bán nhang về mang một chút gạo mốc, những khúc mì vụn, những gốc rau muống, một chút bột ngọt, tất cả làm chung thành một món ăn ngon lành. Nhờ vậy mà chị cầm cự cùng với chồng con. Nhưng lúc ấy còn anh kia, còn những lời hứa hẹn tuy tuyệt vọng nhưng đầm ấm ngọt ngào: "Ngày nào đó có chút vốn, mình sẽ về quê". Còn bây giờ thì "còn gì nữa đâu", mắt chị mờ đi, tai mơ hồ nghe thoang thoảng tiếng xe cộ.

- Má! - tiếng gọi của con gái làm chị Mạc thức giấc. Hóa ra là chị vừa chợp mắt thiếp đi trên băng ghế đá. Đứa con gái nhìn chị, miệng nó nhai nhóp nhép nửa củ khoai luộc. Chị Liên gặp nó ở cửa hàng ăn uống và dắt nó qua với chị. Chị Liên đưa cho chị nửa củ khoai, nói:

- Hồi này mưa quá nên khoai củ ở mấy vựa bị sùng thối, hư hao nhiều lắm. Mình chịu khó đi vòng vòng ở Chợ Cầu Ông Lãnh là kiếm cả rổ.

Chị Liên nhìn bạn nhai nuốt cả vỏ khoai, nói tiếp:

- Mấy chủ vựa sợ những củ khoai sùng lây qua những số khoai còn lại nên đổ bỏ rất nhiều. Mình chịu khó lượm về lựa lại rồi gọt bỏ những chỗ hư đem về luộc, sáng mang ra chợ bán cũng có được cái ăn qua ngày.

Chị Liên nhìn sang bên kia đường phê bình:

- Tội gì mà đem thân xác ra để cho chúng dày vò.

Chị Mạc im lặng, mãi miết ăn ngấu nghiến những củ khoai luộc. Đứa bé gái vô tư ngồi gõ cái lon sữa bò theo điệu nhạc mới: "Đêm qua em mơ gặp bác Hồ, râu bác dài tóc bác bạc phơ...".

Chị Liên ngồi suy nghĩ vẫn vơ, chị Liên thở dài, đối với chị, không yêu thì... không làm được "chuyện ấy", chị sẽ không bao giờ bước sang bên kia đường. Chị chỉ còn một mình, nhẹ lo hơn chị Mạc. Thằng Đức, kỷ vật cuối cùng, dấu ấn của tình yêu đối với chồng chị, anh Nguyễn Văn Hơn, đã mất. Chị không còn gì nữa ngày hôm nay, nhưng những kỷ niệm thời học trò nhẹ nhàng băng ngang dòng tâm tư của chị. Bảy năm yêu thương, bảy năm hạnh phúc. Những lần chồng về phép, chị rất thích nghe những bản nhạc "Buồn trong kỷ niệm", "Tấm ảnh ngày xưa" với tiếng ca não nùng thấm thía của bà chị Thanh Thúy. Ờ, rồi lại còn "Tàu đêm năm cũ" nữa. "Đem về trả cho tôi người xưa"... chồng chị cười nói: "Cũng là con tàu thôi, khi đem người đi thì buồn, lúc đem người về lại em cảm thấy gì?". Chị nhìn anh lo sợ. "Có khi nào...", chị không dám nói hết ý.

"Có khi nào con tàu đem người thân đi mãi" hay không? Ngoài đời chị vẫn nhìn thấy những chiếc GMC chở quan tài phủ cờ vàng chảy ba dòng máu đỏ, máu của người chiến binh đã đổ ra cho đất nước, và những chiếc khăn tang chan hòa nước mắt buộc chặt trên đầu các thiếu phụ và những trẻ thơ. Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, những lần về phép của anh cũng thưa dần. Chị Liên còn nhớ rõ ánh mắt buồn bã của chồng trong lần chia tay cuối cùng, anh đã đi biền biệt không về. Một ngày kia, người ta báo tin anh tử trận. Chị Liên gia nhập vào đội quân tóc dài mặc áo đen, đầu chích khăn tang khóc chồng, ôi thật buồn bã.

Mãi miên man suy nghĩ, tưởng nhớ vu vơ, chị Liên giật mình liếc mắt tìm bạn. Chị Mạc không còn ở bên này bùng binh nữa. Vừa ăn xong củ khoai luộc, chị Mạc vội bước sang bên kia đường, biến mình trong khu nhà ga với ánh đèn vàng, những tấm nệm cói phập phồng và những tiếng thở hồng hộc.

- Trong những tấm nệm cói ấy vang lên tiếng thở, họ thở ấy ra sao nhỉ? - chị Liên nhắm mắt liên tưởng.

Tưởng tượng những tấm nệm cói phập phồng, chị Liên rùng mình ớn lạnh. Chị cảm thấy cô đơn, chị ao ước: "Phải chi được nghe tiếng thở của anh Hơn trong tấm nệm ấy thì... sung sướng biết bao". Chị mơ tưởng những giây phút êm đềm, ấm áp của ngày xưa. Chị có cảm tưởng như nhìn thấy đôi mắt của anh, đôi mắt sao giống đứa con trai của chị quá. Chị mỉm cười vu vơ. Trong giấc mơ, chị thấy anh trở về trên xe bước xuống cùng những người bạn lính, có cả lá cờ vàng nữa... Nhưng rồi chị hốt hoảng. Người đứng trước mặt không phải là chồng chị, mà là người báo tin anh tử trận. Người ấy nói nhiều lắm, chị ù cả tai không nghe gì cả.

- Làm gì mà ngồi đây có một mình hả em?

Chị Liên giật mình mở mắt, trướưc mặt là một gã đàn ông, tay cầm ổ bánh mì và bọc trà đá.

- Ăn đi em, anh đã ăn rồi. Đêm nay sao buồn quá.

- Không, cảm ơn.

Chị Liên đứng dậy bỏ đi ra bờ sông Bạch Đằng. Gió đêm làm chị cảm thấy lạnh hơn. Dòng sông đen lấp loáng ánh đèn. Chị nhớ đến cái chết của chị Trúc, xác chị nằm ngữa trương phình lên. "Không, mình không được phép tự tử, mình là người Công giáo. Lạy Chúa, xin nâng đỡ con, dẫu cho có thế nào con vẫn tin Chúa, Chúa ơi!", chị Liên khấn thầm mặt hướng lên trời. Mỗi khi nghe tin có vài anh em phế binh thân quen chết đi, chị vẫn thường cầu nguyện. Chị vẫn mong là ngày mai rồi sẽ khác đi.

Mùa mưa cũng vừa sắp hết, Chị Liên sửa soạn rời khỏi khu vực nhà ga xe lửa Sài Gòn. Chị nói với các chị bạn là cần đi xa để quên những chuyện buồn. Chị muốn về quê nhưng quê hương đâu còn nữa. Chị đi bộ về phía Chợ Lớn, lạc vào giáo xứ Quận 8. Buổi trưa chị ngồi nghỉ chân bên cổng nhà thờ Bình An Thượng. Chị nhìn lên tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cầu nguyện. Ông cha xứ già, tóc bạc phơ, dáng người mệt mỏi từ trong nhà thờ đi ra nhìn thấy chị. Chị nhìn cha. Hình ảnh ông cha xứ già sao giống đấng Thánh Phêrô quá. Cha hỏi, chị lễ phép trình bày hoàn cảnh của mình. Chị không mong cầu điều gì khi trình bày hoàn cảnh của chị, chị có cảm tưởng như đang xưng tội trước vị cha xứ, lòng chị trở nên nhẹ nhõm hơn. Thế thôi.

Nghe xong cha xứ bước vào lại giáo đường. Một lúc sau nghe tiếng cha gọi, chị Liên đi vào. Cha mở ngăn kéo, trong có số tiền lùớn nhưng là toàn là tiền giấy nhỏ, chị hiểu đó là tiền ủng hộ của giáo dân dâng hiến trong những ngày lễ. Cha xứ đã cất giữ những món tiền đó trong nhà thờ. Chị ứa nước mắt nhìn cha. Ông cha xứ già cẩn thận gói số tiền ấy vào tờ giấy báo và run run cầm đưa tận tay chị. Nước mắt chị trào ra, ướt cả khuôn mặt. Cha gọi người làm vườn nhờ đưa chị đến bến đò qua bên kia sông để tránh không bị công an làm khó dễ. Chị quay lại nhìn cha chào từ giã. Cha dặn chị: "Con nên rời bỏ cuộc sống vỉa hè ấy đi" và chúc lành: "Chúa nâng đỡ bước chân con. Hãy cầu nguyện thường xuyên".

Chị Liên quay lại nhà ga xe lửa Sài Gòn, tay chị cầm theo ba ổ bánh mì kẹp thịt ba rọi trông thật ngon lành. Nhưng chị không gặp được chị Mạc và con Hoa. Ở đấy vừa có chiến dịch thu gom những người sống "bụi đời" vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn ngủ ngoài hè phố. Nhà nước cộng sản Việt Nam không bằng lòng để những người trước kia tuân theo lệnh đi xây dựng vùng kinh tế mới nay trở về sống ở hè phố, "bêu xấu chế độ". Lần này tất cả bị đưa đi những nông trường xa xôi khác. Chị Liên mò vào những xóm nghĩa địa hỏi thăm, nhưng không ai biết mẹ con chị Mạc ở đâu. Mãi về sau gặp lại chị Nguyệt "già", chị Liên mới biết là chị Mạc bị đưa đi cải tạo lao động ở "nhà nuôi" Ba Thôn, huyện Hóc Môn.

- Còn đứa con gái? - chị Liên hỏi.

Chị Nguyệt nhún vai:

- Thì họ tách hai mẹ con ra chớ sao, nghe đâu con nhỏ được đưa về cô nhi viện gì đó ở Gò Vấp.

Chị Liên ngồi thơ thẩn ở bùng binh nhìn qua sân ga, sau đợt truy quét sinh hoạt vẫn y như cũ. Bên kia nhà ga là kiếp người lầm than tủi nhục, những người sống vật vờ đi đi lại lại, họ không còn cách nào để sống khác hơn. Vẫn là những ổ bánh mì, những trả giá, kỳ kèo cho mỗi cuộc tình. Chị nghĩ về chị Mạc và đứa con gái, họ đã sống như những con chó ghẻ, bị rẻ rúng, đuổi xô. Chị nghe phong phanh tình hình có nhiều biến chuyển. Khối cộng sản ở Đông Âu đang bị tan rã, Liên Xô đã có tổng thống. Cộng sản Việt Nam đã bắt chước đưa ra "những việc cần làm ngay" của đảng và nhà nước. Chị đã nhìn thấy những cái quẹt ga thay cho cái quẹt dầu hôi. Đất nước đang đổi mới. Những bộ quần áo từ nước ngoài gởi về đã thấy bày bán ở các chợ trời, nhiều người đã liên lạc được những người thân ở hải ngoại. Đường phố cũng đã khác xưa, những ngôi nhà cao tầng và nhiều khách sạn đang được xây dựng lên. Đêm tối đã thấy những ánh đèn màu xanh đỏ chớp loáng trên những bảng hiệu. Nhà nước đang "mở cửa" đây mà. Sự thay đổi này đâu phải là ... vì dân. Họ thay đổi để tồn tại, để khỏi bị dân chán ngán như Đông Âu, để nuốt trôi miền Nam.

À, thì ra nhà nước cộng sản đang dùng sự hào nhoáng xa hoa để che đậy những đen tối của sự thật. Họ biết là dư luận các nước bên ngoài đang hướng về Việt Nam, họ đã trả tự do cho những sĩ quan đi học tập cải tạo. Còn ông cha Thủ ở nhà thờ Đồng Công, xã Tam Hà, huyện Thủ Đức thì sao nhỉ? Họ đã thả cha ra hay chưa? Tội nghiệp, cha đã ngoài tám mươi mà không thoát khỏi lao tù. Hòa thượng Thích Trí Thủ nghe nói rằng đã "ức quá" mà chết. Còn hai ông Phạm văn Thương (Tuệ Sỹ) và Lê Mạnh Thát (Trí Siêu) đã bị họ tử hình chưa? Liệu những dư luận của các nước có giúp gì được cho họ hay không?

Những người bất hạnh sống trên hè phố đang bị bắt nhốt, xua đuổi ra khỏi thành phố, đang âm thầm gục chết ở vỉa hè, góc chợ, công viên có được ai chú ý tới không? Liệu sự "mở cửa" này có làm cho các nước bên ngoài công nhận màu cờ đỏ như máu kia không, có quên đi màu cờ vàng hiền hòa như tấm áo khoác của những nhà sư tu hành theo hạnh khất sĩ hay không?

Tự nhiên chị Liên cảm thấy quá mệt mỏi. Bộ ngực chị lép xẹp, đôi vai khô gầy, đôi chân chị nặng nề, không còn đủ sức để đi tiếp đoạn đường nữa. Chị nhìn thấy những người đàn bà và trẻ em mời mọc khách qua đường những điếu thuốc lá ngoại. Chị nghe nói ở Củ Chi, những nơi gần cửa khẩu, có những người đi buôn lậu thuốc lá ngoại, sống được lắm. Chị nhìn xuống gói giấy báo bọc số tiền của vị cha xứ già của giáo xứ Bình An Thượng. "Tình thương" của giáo dân đây mà. "Nghị lực" của Thiên Chúa đang tiếp sức cho chị. Ờ, tại sao chị lại không đi về Củ Chi một chuyến xem sao. Ở đấy còn có nhỏ bạn học ngày xưa, ở giáo xứ Bắc Hà, gần căn cứ Đồng Dù có cây phượng vĩ. Năm học cuối của mùa hè xưa, hai đứa đã từ giã nhau, nó đi lấy chồng, còn chị gặp anh Hơn. Hai đứa đã tặng nhau cuốn lưu niệm, trong đó có ghi những dòng lưu bút và ép vào đó những cánh hoa phượng. Cánh phượng ấy bây giờ có lẽ đã khô theo thời gian nhưng những cảm xúc ngày xưa vẫn tươi mãi trong lòng chị. Ngày xưa chị đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của nhà nước cộng sản, con Hoa ngăn cản:

- Hãy ở lại thành phố, Liên ơi. Mình không biết nói sao về cái lòng tốt có vẻ như lo cho dân kia. Nó có vẻ tuyên truyền, xảo trá làm sao ầy. Chúa đã dạy "hãy xem trái thì sẽ biết kẻ trồng cây", hãy nhìn xem những gì họ đã làm... Đừng để bị xí gạt.

Nhưng tiếc thay ngày ấy chị đã không còn cách nào khác, chị bị liệt kê vào thành phần gia đình "ngụy", có chồng chết trận nên phải đi vùng kinh tế mới để rồi bây giờ... chị ngồi đây, tứ cố vô thân. Chị Liên đứng dậy rời bùng binh chợ Sài Gòn, bỏ nhà ga xe lửa, tìm đường về Củ Chi trên chuyến xe cuối ngày. Xe lăn bánh, chị nhìn lại hè phố Sài Gòn lần nữa và nói với chính mình: "Chúng sẽ không giết chết được anh đâu. Bởi vì anh đang sống trong em và thở bằng hơi thở của em". Chị nguyện sẽ sống xứng đáng với sự hy sinh của anh, người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa của chị. Chi Liên đã ở lại bên này đường vì chị còn giữ vững niềm tin, chị sẽ nối tiếp bước đi của chồng. Bỗng nhiên chị Liên ứa nước mắt: "Nếu như Chúa chưa tuyệt con đường sống của con thì giúp con thức tỉnh các thế hệ mai sau cảnh giác, không để vi khuẩn vô nhân xâm chiếm tâm hồn".

Tới nơi chị đi bộ về hướng giáo xứ Bắc Hà, về nhà người bạn gái thuở học trò xưa. Trong xóm đạo này có rất nhiều người Bắc di cư năm 1954, không cộng sản. Họ là những người ghê sợ cộng sản như một cơn dịch bệnh.

* * *

Anh em phế binh, cô nhi, quả phụ và những người lính rã ngũ trong nước không nghe thấy chính phủ Hoa Kỳ và đồng minh nhắc nhở gì đến chúng tôi cả. Không lẽ họ đã quên và không còn trách nhiệm đối với những người bạn chiến đấu năm xưa nữa hay sao? Những con người cùng khốn, đang sống bên lề cuộc sống, nạn nhân của chế độ cộng sản đang trông chờ các bạn. Anh em phế binh luôn hướng về chính phủ Mỹ và các đồng minh cũ bởi vì họ thấy các quốc gia Tây phương đã giúp đỡ người vượt biên, những người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào đất nước họ. Còn số phận chúng tôi thì sao?

Nhưng đã là chiến binh không nên tuyệt vọng. Chúng tôi chỉ cảm thấy cô đơn vì không hòa nhập được vào với xã hội cộng sản. Ý chí ngoan cường, quật khởi sẵn sàng hưởng ứng các cuộc tranh đấu cho tự do, nhân quyền trên quê hương không mất trong lòng chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy rõ ăm mưu thâm độc của nhà nước cộng sản khi đày đọa chúng tôi, họ muốn chúng tôi chết lần chết mòn... trong quên lãng và nghèo đói. Nhà nước cộng sản muốn xóa đi một trang sử u buồn, những người như chúng tôi không có quyền sống trong nhân phẩm. Để khỏi mang tiếng với các nước bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản không trực tiếp giết chúng tôi bằng vũ khí, súng đạn, mà lùa chúng tôi vào những chốn rừng thiêng nước độc để cho thiên nhiên, dịch bệnh và đói ăn tiêu diệt chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã không chết. Chúng tôi đã sống. Sống để làm nhân chứng cho một thời đại đen tối của đất nước: người cộng sản Việt Nam đang dày vò những người khốn khổ, muốn tiêu diệt những người không còn có lợi ích cho xã hội. Những người vô sản hôm qua đang muốn tiêu diệt những người vô sản hôm nay.

Anh em chúng tôi đồng tâm nguyện với nhau: "Đừng chết! Không được chết! Ngày xưa chúng ta là những chiến binh tử thủ trước chủ nghĩa cộng sản, ngày nay chúng ta tiếp tục tử thủ trước cái chết đang chờ chực chúng ta, từng ngày, từng bữa. Nếu chúng ta không cố gắng kéo dài cuộc sống thì những lớp người kế tiếp, trong đó có con em chúng ta, sẽ bị nhà cầm quyền cộng sản mặc tình nhồi nhét, tuyên truyền những điều sai sự thật về cuộc chiến đã qua và như thế sự thật sẽ mãi mãi bị chôn vùi. Không còn ai biết chính họ đã xâm chiềm miền Nam, đày đọa và bóc lột nhân dân miền Nam. Như vậy rồi con cháu chúng ta sẽ tiếp tục mãi mãi trở thành nô dịch cho chế độ cộng sản. Chúng ta phải sống để làm nhân chứng, nhân chứng của thời đại Việt Nam, nhân chứng của lương tâm nhân loại!".

Từ đó, những người cùng khổ như anh em chúng tôi đã cố gắng sống. Là người ai cũng muốn sống, nhưng sống trong chế độ độc tài cộng sản này không phải dễ. Chỉ những ai không có xương sống, đầu óc ù lì không dám bênh vực lẽ phải mới thoi thóp sống được, những người khác không có chỗ đứng. Biết bao nhiêu bạn bè, thân hữu chúng tôi đã nằm xuống vì dám chống lại những người cầm quyền, nhiều người như chúng tôi, ê chề hơn, ngã gục trước bệnh tật, đói ăn và thiếu áo. Nhiều người đang chết dần chết mòn trong nghèo khổ, nhân phẩm bị chà đạp, nhiều người khác đã tự tử để trút gánh đời. Nhưng chúng tôi phải sống, sống để mọi người thấy sự tàn ác của chế độ này, một chế độ không có chỗ đứng cho những người thua cuộc.

Những khẩu hiệu "xã hội chủ nghĩa đẹp gấp trăm, gấp ngàn lần xã hội tư bản chủ nghĩa" là những ngôn từ rỗng tuếch, tất cả chỉ là sự thay ngôi đổi vị của những thành phần giàu có. Trên đất nước ngày nay, người ta chỉ thấy cán bộ cộng sản sống ung dung, phè phỡn trên sự nghèo khổ của đồng bào. Chúng tôi phải sống, sống để làm nhân chứng. Nếu chúng tôi bị chết hết đi thì sự tàn ác vô nhân của chế độ cộng sản sẽ còn tiếp tục.

Thành phố đang theo đà "mở cửa" của đất nước. Vào những dịp lễ lớn, sinh hoạt mua bán trở nên nhộn nhịp, tấp nập hơn. Lẽ ra thì những người đi xin cũng có nhiều cơ may hơn, anh em phế binh bán nhang được nhiều hơn, nhưng vì "mở cửa" nên trên đường phố có nhiều khách nước ngoài "du lịch" vào Việt Nam, chính quyền cộng sản muốn "triệt tiêu" nghề ăn xin. Những người ăn xin đang ngồi ủ rũ trong những công viên kia buồn lắm. Những anh em phế binh đi bán nhang cũng không vui sướng gì vì cũng đang bị chiến dịch "làm đẹp thành phố" truy lùng.

Sống làm sao đây? Đó là một câu hỏi lớn. Mua bán cần có vốn liếng, đi xin thì bị bắt, họ chỉ còn một cách là kéo dài cuộc sống với chính bản thân kiệt quệ của mình. Những phụ nữ còn chút nhan sắc và trẻ trung thì bán thân thể, còn những người cùng khốn chỉ có thể đi bán... máu của mình mà thôi. Bán máu để nuôi bản thân và nuôi gia đình. Anh em phế binh chúng tôi cũng đi bán máu, bán cho những trung tâm tiếp huyết để có chút tiền làm vốn mua nhang.

Bỗng nhiên bán máu trở thành một phong trào, bán máu là một nguồn lợi. Từ tờ mờ sáng, trước các trung tâm tiếp huyết hàng trăm, hàng ngàn người "tình nguyện" chen chút nhau đứng chờ được lấy máu. Có người đã ngủ đêm tại chỗ để chắc chắn sáng hôm có một chỗ đứng trong hàng để chờ được người ta lấy máu. Khoảng 3 giờ sáng, đoàn người đã đông. Ai đến trễ thì phải chờ ngày hôm sau và gia đình người "tình nguyện" sẽ... đói. Do đó phải có một chỗ đứng.

Trở về trường hợp của tôi. Một lần nữa, đã lâu rồi, cha tôi nằm phòng cấp cứu bệnh viện lao Hồng Bàng, bây giờ mang tên Phạm Ngọc Thạch. Được đưa vào từ chiều tối hôm trước nhưng ông đã nằm chờ mãi trong một ghế bố kê ở hàng hiên, không thấy ai đến hỏi thăm, chẩn bệnh và cấp thuốc men gì. Đến sáng người vào khám bệnh đông thêm, cái ghế bố của cha tôi được đưa ra gần cổng "nhà vĩnh biệt" (nhà xác). Tôi thấy những người nghèo khốn khác bị thương nặng cũng được đưa ra nằm gần đấy, thân nhân của họ phải chườm nước đá trên những vết thương để cầm không cho máu rỉ ra. Nhưng tuyệt nhiên không thấy vị y sĩ nào đến chẩn bệnh.

Ngược lại tôi thấy nhiều bệnh nhân thuộc hạng gia đình khá giả được đưa vào trễ hơn thì được cấp tốc đưa lên phòng dưỡng bệnh. Tại đây họ được chăm sóc kỹ lưỡng, được cấp thuốc men thăm hỏi và được ăn uống no đủ. Có người đã nằm ở đó suốt ba tháng trời, có người sau khi xuất viện đã đến tái khám nhiều lần và mỗi lần được cấp phát thuốc men cho đến khi hết hẳn bệnh. Tôi sốt ruột hỏi thăm "người ta", thân nhân của bệnh nhân, thì họ nói nhỏ:

- Phải biết... sống !.

- Với ai? - tôi hỏi.

"Người ta" làm thinh. Gần trưa hôm sau, một nữ cán bộ tên Hồng đến gần hỏi cha tôi:

- Thân nhân đâu?

Tôi vội vàng trình bày bệnh tình và hoàn cảnh gia đình tôi, bà Hồng hỏi nhỏ:

- Có hai chỉ vàng không? Nếu có thì được đưa lên phòng điều trị, trên đó có đủ thuốc và được chữa trong vòng sáu tháng. "Thủ tục" để tôi hỏi cho.

Tôi ú ớ trong họng. Bà Hồng chợt hiểu, liền thay đổi nét mặt và nhìn tôi dằn mạnh từng chữ:

- Còn nếu không thì về địa phương, mang hộ khẩu ra các trạm y tế xin khám bệnh, tại đó người ta cấp thuốc miễn phí cho.

Tôi dạ dạ vâng vâng, rồi bỏ đi ra ngoài. Sáng sớm hôm sau tôi đi tới thẳng trung tâm tiếp huyết và... chen vào sắp hàng với những người "tình nguyện" hiến máu khác. Tại đây tôi mới biết có những người cũng nghèo khổ như chúng tôi làm nghề "xếp hàng mướn". Họ đã ngủ lại đêm để giữ chỗ cho những người "tình nguyện" đến bán máu "mướn" lại. Giá một chỗ đứng bằng 1/10 sồ tiền người bán máu lãnh được. Những người này thường "quảng cáo" là họ có quen biết lớn trong trung tâm. Những ai không đủ tiêu chuẩn để "hiến" máu thì họ sẽ "nói" với cán bộ "lấy máu giùm" cho, giá của sự "nói giùm" này bằng 2/3 số tiền mà người bán máu sẽ nhận được. Sau khi "hiến" máu mỗi người được "bồi dưỡng" một ổ bánh mì nhỏ, một ly sữa cacao, một miếng thịt bò bí tết bằng ba lóng tay và một cái hột gà ốp la. Những người bán máu "không đủ tiêu chuẩn" thì phải biết điều nhường phần này cho người làm "mai mối" và "nhà bếp". Không đủ tiêu chuẩn là những người quá ốm yếu, bị tình nghi ho lao hoặc bệnh lây lang, hoặc cho quá nhiều lần, máu không đủ hồng huyết cầu.

Tôi lanh lẹ chen lấn nên cũng có một chỗ đứng trong hàng chờ vì những người "tình nguyện" ai cũng sợ, họ không biết tôi là ai, thuộc "phe" nào của trung tâm tiếp huyết. Đúng 8 giờ sáng, các "trật tự" của trung tâm đi nhìn mặt từng người xếp hàng và phân loại, tôi bị vào loại không đủ tiêu chuẩn vì thân thể quá ốm yếu, suy dinh dưỡng. Bực mình trước cảnh bóc lột người cùng khổ, tôi lớn tiếng chửi bới:

- Tại sao những người khác cũng ốm yếu như tôi được cho xếp hàng còn tôi bị loại? Bộ ăn hối lộ hả? Coi chừng nghe, tôi vào trung tâm báo cáo các người ăn tiền hối lộ cho coi...

Chưa kịp nói hết câu thì "uých" một cái, tôi bị cùi chỏ của một tên mặt rô giả bộ đứng trong hàng tống mạnh vào ngực. Đang bàng hoàng định la lên kêu cứu thì tôi bị nhiều tên khác xúm lại lôi cổ ra khỏi hàng. Nhiều người khác chỉ chỏ mắng thêm. Một người đứng xếp hàng chỉ mặt tôi chửi:

- Định phá đám hả mậy? Đ... mẹ xác thân như mày có gì mà cho. Đã không biết thân biết phận còn dám hỗn láo. Đáng kiếp! Đồ phế binh ăn hại.

Thế là tôi bị hất văng ra ngoài hàng, người đứng trước đứng sau làm ngơ như không có chuyện gì xảy ra, chen mất chỗ đứng của tôi. Bực mình và buồn bã, tôi về lại nhà thương thăm cha tôi, bệnh của ông càng lúc càng nặng mà tôi thì không có tiền chữa chạy. Lần này tôi quyết định phải "biết điều" hơn. Sáng hôm sau tôi ra sớm hơn để xếp hàng và hứa cho một tên mặt rô đứng giữ trật tự số tiền nó muốn để được bán... máu.

Từ đó tôi có thêm nghề mới, nghề bán máu. Lân la với chốn này, tôi cũng làm quen được nhiều người khác, vui nhất là được gặp lại những anh em phế binh và các quả phụ đã từng một thời quen biết. Phế binh Cận (cụt một tay) ngồi ở công viên với phế binh Độ (mù một mắt và cụt một chân) và Thành (méo miệng và cụt một tay) chờ chị Loan và bà Nguyệt già tới giới thiệu với người "sắp chỗ" cho đứng xếp hàng.

Bà Nguyệt hồi này tìm được "việc làm" mới ở chợ bán máu nên không phải ra bùng binh chờ... khúc bánh mì nữa. Thật ra thì chẳng có ai mời bà Nguyệt ăn bánh mì cả vì bả quá già, thấy mà ghê. Bả còn có thêm nghề mới là "dẫn mối", nếu "giới thiệu" được nhiều người đến bán máu thì được nhiều ổ bánh mì với hột gà ốp la, ăn không hết thì bán lại nhà bếp. Chị Loan nhờ bà Nguyệt "giới thiệu" nên đã bán được ba lần máu, mà không cần phải đợi từ 3 đến 6 tháng.

Anh Cận dự tính nếu mà mọi chuyện êm xuôi thì anh và anh Độ, có con đang đau nặng nằm ở bệnh viện Nhi Đồng I, sẽ đi đến Thủ Dầu Một bán máu tiếp. Tại đây thủ tục bán máu dễ hơn nhưng không được bồi dưỡng bằng ở Sài Gòn, và họ sẽ tìm đến những nơi bán máu khác để tiếp tục "hiến" máu lấy tiền. Tại những nơi này không ai có thể biết họ vừa mới bán máu xong vì thiếu phương tiện đo lường hồng huyết cầu. Nhờ bán máu nhiều lần, anh Độ chạy đủ tiền lo thuốc cho con, anh còn dự định nó lành bệnh xong anh sẽ đưa hai đứa con nhỏ ra Nha Trang sống một thời gian, không cho chúng đi mót rau nữa.

Anh Thành ngồi buồn buồn nhìn Cận và Độ xếp tiền vào túi áo ở ngực. Anh bị lao nhìn thấy rõ quá và thân thể ghẻ lở tùm lum nên bị từ chối "nhận" máu. Anh Cận rủ anh Độ qua bên kia đường làm một tô hủ tiếu "rửa ruột" cho đã. Nhưng chị Ngọc Trai, vợ anh Độ, từ đâu chạy đến hớt hãibáo tin là con họ đã chết, người ta đưa vào nhà xác rồi. Anh Độ nghe tin ngồi thẩn thờ, không nói được gì cả, chỉ biết văng tục một tiếng "Đ... mẹ nó, cuộc đời này thật là chó đẻ", rồi rủ rục xuống mặt bàn. Tô hủ tiếu anh Độ vừa kêu ra ăn không nổi, anh Thành chạy vô ăn thay nhưng không còn thấy ngon, chỉ thấy mùi vị đăng đắng. Chị Ngọc Trai nức nỡ nói tiếp:

- Người ta nói phải đóng tiền cho bệnh viện mới được đem xác con về. Họ nói là tiền giữ xác trong nhà lạnh, để lâu càng trả thêm tiền. Tiền xương máu của anh vừa bán cho nhà nước xong, không tội gì phải nộp lại cho nhà nước. Đời bây giờ chết là hết. Vô thần mà, không còn tâm linh gì nữa. Thôi để con mình cho người ta đem đi hỏa thiêu, coi như vô thừa nhận.

Anh Độ cầm số tiền vừa lãnh xong, sau khi đã chia cho người "xếp chỗ" và đưa cho vợ, chống gậy đứng lên, đi qua bên kia đường ngồi xuống ghế đá. Miệng anh đắng nghét, môi khô lại, mắt hoa lên rồi nấc lên: "Con ơi!".

Chị Loan dạo này cũng hết đi sang bên kia đường kiếm ổ bánh mì thịt, chị gia nhập lực lượng "tình nguyện" hiến máu. Chị có ý định gom số tiền bán máu được khá nhiều rồi sẽ đi buôn lại như xưa vì nghe nói là bây giờ cộng sản không còn ngăn sông cầm chợ nữa. Hôm nọ, gặp lại chị Mai, hai người mừng quá. Chị Mai cho biết là nhờ cặp bồ với một tài xế xe tải, chị thoát được vài chuyến hàng nên có lại mái nhà. Chị Loan nghĩ nếu mình có vốn sẽ nhờ chị Mai chỉ đường, nhưng trong hoàn cảnh này muốn có vốn chỉ còn cách đi bán... máu. Chị Loan đã đi đến các trung tâm tiếp huyết tại Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên tuốt tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hòa "bán máu". Nhờ "biết điều" và ăn nói giã lã, chị bán được nhiều lần. Nhưng vì muốn mau thoát kiếp sống hè phố, chị Loan đã quên chính mình. Thân xác của chị ngày càng kiệt quệ, mặt chị ngày càng xanh xao, chân đi không vững, chị cứ bị xây xẫm luôn. Một đêm chị nằm ngủ luôn trên ghế đá một công viên tại Chợ Lớn, xác cứng đơ. Sáng sớm hôm sau người ta đến chở xác chị đi, số tiền chị để dành cũng không cánh mà bay... vào túi những người công an đến khám xét.

Những người sống vất vưỡng trên hè phố, có đó rồi mất đó. Họ sống như những bóng ma, vật vờ bên ngoài cuộc sống, không ai màng đến sự hiện diện của họ. Họ còn sống hay chết đi không thay đổi những sinh hoạt thường ngày. "Không có mợ, chợ vẫn đông".

Thành phố trong những tháng ngày cận Tết, mọi người vật vã đi tìm miếng sống. Nhà nước công sản tiếp tục bận rộn với những kế hoạch 5 năm, 10 năm, những công trình thế kỷ năm 2000, năm 2020... Họ bận tâm xây dựng những tượng đài kỷ niệm nọ kia, làm những báo cáo vượt chỉ tiêu, soạn diễn văn chúc mừng... Các loa đài phát thanh ra rả những bài ca ngợi thành tích, hứa hẹn thiên đàng, hạnh phúc ấm no, những âm thanh chát chúa vang vọng vào đầu người dân. Nhưng người dân Việt Nam đã điếc, họ chỉ thấy trước mắt là địa ngục trần gian. Người dân sợ hãi mỗi khi nhìn thấy lá cờ có hình ngôi sao vàng chìm ngập trong màu máu đỏ.

Không! Không thể kéo dài mãi kiếp sống trâu ngựa này mãi trong chế độ này. Những người nghèo khổ đang bơi trong biển tuyệt vọng. Chế độ cộng sản đang hủy hoại con người, kể cả những người bần cùng nhất trong xã hội. Họ đã xúc phạm đến các thần thánh, đã đày đọa quê hương trong đói khổ và duy trì bất công. Họ không ngần ngại sử dụng những thủ đoạn tàn ác để triệt tiêu những người làm vướng chân họ. Họ sẵn sàng đi ngược đạo lý, sống trái tình người miễn sao được tiếp tục đè đầu người khác. Họ không phải là những con người bình thường, họ là loài thú dữ, những con "chó sói", không biết đạo lý, không biết tình người. Họ quay mặt luôn với những người đã từng ủng hộ họ ngày hôm qua, những "bà mẹ chiến sĩ" bây giờ chỉ biết ngồi than thân trách phận vì đã dại khờ bị cộng sản lường gạt, không những lường gạt cảm tình mà còn lường gạt luôn cả mạng sống con mình và tài sản. Chế độ cộng sản chỉ biết lo củng cố chỗ đứng của họ và chỉ bảo vệ quyền lợi của họ. Không còn gì để nói chuyện "phải trái" với những loại người này nữa.

* * *

Bờ sông Bạch Đằng là chỗ anh em phế binh và những người sống ở hè phố thường ra đó tắm rửa, giặc giũ và nghỉ ngơi. Ngâm mình dưới làn nước mát, chúng tôi tươi tỉnh trở lại, bụi bặm và nỗi nhọc nhằn tan biến hẵn đi. Chúng tôi ngước nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo, tay chỉ xuống dòng sông, mơ tưởng một trận Bạch Đằng Giang. Nhìn dòng nước chảy, chúng tôi mong xảy ra những cơn lốc xoáy cuốn phăng những bất công trong xã hội. Ngước nhìn trời cao, chúng tôi hy vọng có một Thánh Trần ra tay tế nhân độ thế, sớm mang lại cho quê hương tình người. Chúng tôi mong những bàn tay nối dài từ hải ngoại kéo anh em phế binh chúng tôi ra khỏi vùng bóng tối, giúp chúng tôi tạo lại cuộc sống bình thường, tìm lại nhân phẩm đã mất.

Viết lại theo lời kể của Song Nguyên


Chương 4: Cuộc đời tưởng đẹp như bài thơ


Theo tiếng còi thúc quân tổ quốc kêu gọi đàn con lên đường bảo vệ đại nghĩa, năm 1960 tôi vào quân ngũ và gia nhập binh chủng Biệt Động Quân. Với tính tình bặt thiệp, nét mặt dễ coi, dáng người cao ráo trong bộ quân phục hoa rừng và chiếc mũ nâu, tôi được tuyển vào đơn vị khánh tiết, chuyên môn đi chào đón các ông lớn và mỗi ngày chỉ đứng thẳng, nghiêm chào, bồng súng, lau súng, giữ thẩng li quần, đánh bóng giày. Nhiều lúc đứng rụng cả chân, mỏi cả người làm dàn chào để các ông lớn, bà lớn đi qua. Cuộc đời quả thật đáng chán!

Đầu năm 1961, tôi cùng một số bạn bè rủ nhau xin chuyển sang đơn vị tác chiến "Thần Hổ", đơn vị "bách chiến bách thắng", luôn luôn noi gương truyền thống anh hùng áo vải Lam Sơn, góp phần cùng các binh chủng hải lục không quân Việt Nam Cộng Hòa viết lên những trang quân sử oai hùng trên bước đường trừ gian diệt bạo, mang lại no ấm và yên bình cho nhân dân. Cuộc đời lính chiến không gì hãnh diện cho bằng, ngày đêm ta ghì cò súng ngăn chặn cuộc xâm lăng của quân cộng sản từ phương Bắc tràn xuống.

Chúng tôi có mặt trên hầu hết các chiến trường, tham dự không biết nhiêu trận đánh kinh hồn bạtvía, từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, từ vùng núi đồi hiểm trở cao nguyên xuống tận đồng bằng sông Cửu Long sình lầy. Đơn vị "Thần Hổ" chúng tôi chưa thất bại trận nào. Những tháng năm trong quân ngũ, tôi đã ba lần bị thương nhẹ nên vẫn tiếp tục đi chiến đấu.

Một trong những trận đáng ghi nhớ nhất, đẫm máu nhất và cũng có thể nói là lịch sử nhất, đó trận đánh Tết Mậu Thân, năm 1968. Vào đúng lúc nhân dân đang cúng giao thừa, quân cộng sản lợi dụng thời cơ tràn vào các thành phố, chiếm giữ những cao ốc và cứ điểm quan trọng để tạo lợi thế chiến đấu. Chúng bắn phá khắp nơi, tiếng súng và tiếng đại pháo vang rền khắp trời. Tại Sài Gòn, quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đục tường, khoét vách tiến lên đánh cận chiến, xáp lá cà với quân giặc. Nhiều tên địch bị trúng đạn rớt từ sân thượng xuống đất như những bị thịt, nhiều tên khác chết gục mặt trên những ngã tư đèn xanh đèn đỏ hay dọc các bờ tường. Trận chiến tiếp diễn từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 5 âm lịch, thây giặc nằm la liệt từ thành thị cho đến các vùng ngoại ô. Thảm bại nảo nề, đám tàn quân còn lại chạy sang Cambốt qua ngả Tây Ninh, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đuổi theo, tiến vào các sào huyệt mật khu của chúng, phá hủy và đập tan những ổ kháng cự còn lại. Chống cự không lại, quân cộng sản rút về Hạ Lào.

Vào đầu hè năm 1972, một lần nữa quân cộng sản bất ngờ vượt sông Bến Hải tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị, nhưng rồi cũng bị quân lực Việt Nam Cộng Hòa đánh bật, xác giặc nằm phơi suốt dọc Đại Lộ Kinh Hoàng trên quốc lộ 1. Đơn vị "Thần Hổ" chúng tôi không những là một trong những đơn vị đầu tiên tái chiếm Cổ Thành mà còn kết hợp với các binh chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đẩy lùi địch quân ra khỏi Quảng Trị. Xét về tương quan lực lượng và tinh thần chiến đấu, quân cộng sản dưới cơ thấy rõ, họ tuy có chiếm thế thượng phong lúc ban đầu nhờ lợi dụng yếu tố bất ngờ, nhưng về lâu về dài cán cân nghiêng hẳn về phía quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Một hôm nọ, đơn vị chúng tôi được lệnh tiếp viện cho đơn vị bạn tại Chiến Khu Đ trong vùng rừng núi Tây Ninh. Tiểu đoàn tôi được trực thăng vận nhảy vào lòng địch và đổ bộ ngay trên đầu quân giặc, súng gắn lưỡi lê trong tư thế sẵn sàng đánh cận chiến. Chân vừa chạm đất, tôi lăn nhiều vòng nằm rạp mình xuống đám cỏ tranh nghe ngóng, định hướng bạn thù. Tiếng súng và tiếng lựu đạn nổ quanh vang rền, đạn bay cheo chéo trên đầu, khói lửa đen ngòm bốc lên mù mịt. Trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ: bình tĩnh. Những khoảnh khắc như lúc này, chỉ cần hớ hênh một chút là toi mạng ngay và nếu không bình tĩnh có thể lộn bạn ra thù, kinh nghiệm chiến trường dạy tôi như thế. Tôi im lặng bò tới các ổ kháng cự của địch, cẩn thận quan sát từng cọng cỏ, thấy gì khả nghi là bắn hoặc ném lựu đạn vào. Quân cộng sản chống trả mãnh liệt, nhưng sau một hồi bị hỏa lực như vũ bão của chúng tôi trút vào tiếng súng địch quân im bặt. Đơn vị chúng tôi tiến vào lục soát và thu dọn chiến trường, cỏ cây nghiêng ngả, xác quân địch nằm ngỗn ngang. Chung quanh mùi tanh của máu, mùi khét của thịt hòa lẫn mùi thuốc súng bốc lên nồng nặc. Cũng may là tôi đã quen mùi chiến trận nên không bị lợm giọng. Đang lúc đơn vị chúng tôi gọi điện về hậu cứ báo cáo tình hình và kêu trực thăng đến bốc thì bộ chỉ huy tiền phương quân địch từ xa ra lệnh tấn công. Chỉ trong tích tắc, đạn pháo quân địch ào ào chụp xuống. Đang rạp người nghe tiếng đề pa để tránh pháo, thì... "Ầm" một tiếng, tôi bị hất văng lên khỏi mặt đất rồi ngã quỵ xuống, đồ đạc và súng đạn văng tứ tung.

Một cảm giác kỳ lạ, tôi thấy ran rát ở phần dưới háng. Tôi lật đật chống hai tay ngồi dậy, nhưng không được nữa. Tôi liền nhìn xuống hai chân. Chân phải của tôi đã bay đâu mất, chỉ còn lại mảnh vải quần rằn ri bê bết máu. Chân trái còn lại bị tê không còn cảm giác, tôi chỉ thấy máu chảy dầm dề, một vài mảnh thịt tím bầm cùng một khúc xương trắng lòi ra cùng mấy sợi gân đỏ lòm lòng thòng dính trong ống giày. Thật kỳ lạ, tôi nhìn vết thương một cách thản nhiên, không nghĩ đó là chân của mình và cũng không thấy đau đớn gì. Một vài giây sau, tôi mới hoàng hồn, bản năng sinh tồn nhắc nhở: "không nên để máu ra nhiều quá". Đạn pháo quân thù cứ nổ rền vang. Tôi vội vàng tháo lưỡi lê ra khỏi nòng súng, lạnh lùng cắt những sợi gân dính tòn ten ở chân trái, nhưng chúng dai quá cứa mãi không đứt. Có lẽ cánh tay của tôi trở nên quá yếu, bàn tay của tôi cứ run lên bần bật. Tôi lột nón sắt xuống làm thớt kê mới chặt đứt được mấy sợi gân dính bàn chân còn lại. Lúc đó toàn thân tôi như bị điện giựt, tôi choáng váng mặt mày. Một cái đau xé ruột xuyên ngang lồng ngực, toàn thân run rẩy. Phần dưới háng đau buốt khó chịu. Tôi sắp xỉu thì thấy anh y tá Cảnh bò lại chích cho tôi mũi thuốc cầm máu. Pháo quân thù tiếp tục nổ quanh, đầu óc tôi hoang mang.

Tôi nhắm mắt để cho anh Cảnh chính thuốc. Thấy kim đâm vào người một hồi mà sao không thấy bơm thuốc, tôi mệt mỏi quay đầu lại nhìn. Thật kinh hồn, anh Cảnh ụp mặt xuống đất chết từ hồi nào. Một mảnh pháo xuyên qua đầu anh, chiếc nón sắt văng qua một bên để lộ một lỗ hỗng đen ngòm cạnh màn tang to bằng ngón tay. Máu và óc cùng vài chùm tóc của anh Cảnh dính đầy bụng tôi. Tôi chỉ kịp tự bơm thuốc vào mình rồi ngất luôn. Cái chết trong lúc này nhẹ như áng mây.

Mười ngày sau tôi hồi tỉnh lại. Như một đứa bé mới sanh tôi không nhớ gì cả. Nhìn thấy ánh sáng lờ mờ trong khoảng tối, tôi cựa mình ngồi dậy nhưng sao ê ẩm, đau nhức cả người. Nghe tiếng động, một cô y tá mặc bộ đồ trắng bước tới.

- Anh tỉnh rồi à?

Tôi lắc đầu không trả lời, môi miệng khô quá. Một lát lâu sau đó tôi mới định thần và hỏi:

- Đây là đâu vậy?

- Phòng Hồi Sinh của Tổng Y Viện Cộng Hòa.

- Tại sao tôi ở đây?

- Anh bị thương nhẹ, vài hôm nữa vết thương sẽ lành, anh được đi về.

- Làm ơn cho tôi xin ly nước. Khát quá - tôi thều thào trong cổ họng, cơn khát thật khó chịu.

Cô y tá lấy miếng bông gòn thấm nước để vào miệng tôi. Tôi bực quá la lên:

- Tôi xin một ly kia mà - tôi cự nự.

- Anh không nên uống nước nhiều - cô y tá hiền từ nhìn tôi. Vết thương của anh chưa lành hẳn. Uống nước nhiều máu sẽ chảy ra thêm. Để tôi chích cho anh mũi thuốc khỏe rồi cho anh uống nước sau.

Thực ra thì cô y tá đã chích cho tôi một mũi morphine, mắt tôi lờ đờ rồi ngủ luôn một giấc cho đến sáng hôm sau. Khi thức dậy tôi nhìn thấy hai tay tôi bị cột vào thành giường và cô y tá đẩy xe tới rửa vết thương. Lúc bấy giờ tôi mới biết mình bị cụt hai chân. Trời đất như quay cuồng, tôi bị hụt hẩng. Mắt tôi hoa lên, những vòng tròn trắng xóa quay nhanh đến chóng mặt. Tôi muốn khóc nhưng không còn nước mắt. Tôi muốn la nhưng tắt tiếng nói. Tôi im lặng nhìn người ta băng bó vết thương, thân thể đau đớn nhưng lòng dửng dưng. Đầu óc tôi trở nên trống rỗng. Thật ra tôi không biết phải nghĩ cái gì. Tất cả đều trở nên xa lạ. Đến 9 giờ sáng, bác sĩ đến khám bệnh nói:

- Cho anh ra trại. Anh khỏe lại rồi. Thoải mái nghe.

Khi ra trại, bệnh viện cho tôi một chiếc xe lăn. Tôi được đưa vào trại điều dưỡng của tổng y viện. Buồn quá, đêm đêm tôi lăn xe ra sân cỏ ngồi đếm sao trời, hồi tưởng lại chuyện đã qua. Càng về khuya, tiếng ve sầu càng thảm não. Tôi nhớ lại một bài hát của Phạm Đình Chương có hai câu thơ: "Anh đi chiến dịch xa vời, nòng súng nhân đạo cứu người lầm than". Ôi, mỉa mai thay, vì nòng súng nhân đạo đó tôi lâm vào hoàn cảnh này. Gió cứ thổi, lá cứ rụng. Trời đang vào thu. Đời tôi như thân cây u ám kia. Từng niềm vui, từng mạch sống rơi rụng xuống đời, để rồi không còn gì nữa. Cuộc sống của tôi bị chặt đứt,còn làm được gì với thân hình què cụt này. Tiếng gà đâu đó gáy báo hiệu trời sáng, tôi lăn xe về phòng uống thuốc an thần để tìm giấc ngủ.

* * *

Ngày qua ngày, tôi quen dần với nếp sống trong viện. Chung quanh tôi không thiếu gì những bạn đồng cảnh ngộ. Mỗi tuần đều có phái đoàn đến viếng thăm và tặng quà cho thương bệnh binh. Một hôm nọ, có phái đoàn của các bà Cao Văn Viên, Nguyễn Ngọc Lễ và ca sĩ Thẩm Thúy Hằng hướng dẫn các nữ sinh trường trung học Gia Long đến thăm và tặng quà cho anh em. Quà thường là bánh kẹo, sách báo và quí nhất là thuốc lá, đôi khi mỗi anh em còn nhận một lá thư an ủi và ngưỡng mộ của một nữ sinh vô danh gởi.

Đang nằm thoải mái trên giường bóc gỡ tờ giấy bao bọc gói quà mới nhận, trên miệng phì phèo điếu thuốc thơm Président, một cô nữ sinh cùng đi với phái đoàn buổi sáng trở lại phòng tôi. Lúc đó khoảng 11 giờ trưa. Nhìn thấy ba chữ "Nguyễn Thị Hiền" thêu trên áo dài trắng, tôi bạo dạn hỏi:

- Ủa, trưa rồi mà phái đoàn của cô Hiền chưa về sao?

Cô nữ sinh giật mình, trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Nhưng liền sau đó cô cúi xuống nhìn bản tên thêu trên áo dài trắng, e thẹn nói:

- Cái anh này tò mò quá. Phái đoàn đã về rồi, còn Hiền thì trở lại thăm anh lần nữa. Anh tên gì?


- Tên tôi dán trên đầu giường đó. Còn bí danh của tôi thì cô y tá chưa ghi.

- Bí danh của anh là gì?

- Hàn Mạc Tử! - tôi khôi hài nói.

- Vậy ai là Mộng Cầm của anh vậy? - Hiền nhanh nhẩu đối lại.

- Trời ơi, thời buổi này cụt què như tôi ai mà thèm làm Mộng Cầm.

- Biết đâu đó, nhiều khi anh đã có rồi mà anh không biết hay không muốn hiểu. Ở đời này có cái gì là tuyệt đối đâu. Khi có những người liều mình xả thân cho tổ quốc, cho dân chúng được bình yên thì những người đó phải được kính trọng. Chính vì muốn được sống trong cảnh tự do no ấm đó mà gia đình của Hiền đã di cư vào Nam. Còn chuyện Mộng Cầm thì Hiền chỉ nói đùa cho vui thôi, ai cũng có thể là Mộng Cầm hết nếu muốn.

Tôi chưng hửng, cô bé này coi vậy mà sâu sắc quá. Hiền nhìn tôi nói tiếp:

- Hiền nói chung chung tâm trạng của người phụ nữ vậy thôi, khi đặt đúng chỗ tình yêu đó không có giới hạn.

Im lặng. Tự nhiên lưỡi tôi cứng lại, đôi môi khép kín, nụ cười tắt hẳn. Mắt tôi hoa lên, hơi thở dồn dập. Tôi cúi đầu, mặc cảm. Tôi còn gì để đời kính trọng, một thân hình tàn phế. Đời chiến binh tàn tạ trong quân y viện còn gì để cho đời chú ý, trong mười hai con giáp tôi chẳng giống con nào. Tôi muốn tìm một câu trả lời thật cay cú để cho đỡ tức nhưng hàm răng trở nên nặng cứng, đôi môi se lại.

Để đánh tan không khí nặng nề đó, Hiền nói:

- Sao anh lặng thinh vậy? Hay là anh kể chuyện chiến trường cho Hiền nghe với.

Được gãi đúng chỗ ngứa, tôi lấy lại bình tĩnh kể lại những kỷ niệm chiến trường. Đến 4 giờ chiều, Hiền từ giã ra về, tôi vui vẻ lăn xe ra tiễn chân đến tận cổng quân y viện. Bóng Hiền vừa khuất, tôi trở về với nỗi cô đơn thường nhật. Tôi gạt mọi giả thuyết ra khỏi trí óc, tôi không được phép nuôi dưỡng ảo vọng. Hiền đến thăm tôi vì muốn an ủi một thương bệnh binh, chỉ thế thôi. Có lẽ Hiền cũng đã từng làm như vậy đối với nhiều bạn đồng cảnh ngộ khác. Thôi quên đi, tôi dặn lòng mình. Và tôi cố gắng sống bình thường như mọi ngày trước đó. Mặc dù vậy hình ảnh, tiếng nói của cô nữ sinh Gia Long kia thỉnh thoảng vẫn hiện ra trong tâm tưởng tôi mỗi khi được ngồi một mình. Tôi có ý trông mong nhưng không nuôi hy vọng.

Chủ nhật tuần sau, Hiền đến thăm tôi và còn mang theo một gà men cơm cùng thức ăn. Thật là bất ngờ và cũng chưa bao giờ tôi được ăn một bữa ăn ngon như thế. Lòng tôi ấm lại lạ lùng, tôi có cảm tưởng như đang chạy nhảy như người bình thường. Ngoài sân tiếng chim nghe sao hay quá và tôi thấy mọi người đều tươi cười.

- Anh cứ ăn tự nhiên. Kể từ nay, anh đừng ăn cơm nhà thương ngày chủ nhật nữa, Hiền sẽ mang cơm cho anh.

- Cảm ơn Hiền có lòng tốt đối với tôi. Nhưng đường sá xa xôi quá mà Hiền đi như vậy rất tốn kém. Vả lại Hiền đâu có làm ra tiền và còn phải lo việc học hành nữa chứ.

- Tiền bạc anh đừng có lo. Mỗi tuần bố mẹ đều cho tiền túi, Hiền không mua sắm gì nên để dành nhiều lắm. Vả lại nhà Hiền ở bên kia cầu Chữ Y không xa bệnh viện là bao, Hiền đi bằng xe đạp đến thăm anh cho đỡ buồn vậy mà.

- Tôi còn phải nằm lại đây lâu lắm, chờ người ta giải phẫu gấp những mảnh đạn còn dính trong người. Thỉnh thoảng Hiền đến thăm là tôi vui rồi.

- À, còn gia đình anh ở đâu mà Hiền không thấy đến thăm anh.

- Cũng ở gần đây thôi, nhưng tôi không muốn báo tin cho gia đình hay chuyện không may này.

Sáu tháng trôi qua, Hiền đến thăm tôi đều đặn mỗi chủ nhật. Trong thời gian đó, người ta đã làm cho tôi hai khúc chân giả và tập cho tôi đi bằng hai nạng chống. Hiền có giúp tôi đi lại ngoài sân sau khi ăn uống. Chúng tôi trở nên thân thiết. Một vài anh em trong viện nhìn tôi ao ước, chuyện của tôi và Hiền là đề tài để anh em trong viện bàn tán. Tôi rất hãnh diện và chỉ biết hãnh diện. Từ đó tôi không còn tự nhiên khi tham gia những cuộc vui với anh em như trước nữa, tâm hồn tôi đang bay bổng tận nơi đâu ấy.

Nhưng niềm vui vừa chớm đã sớm vụt tan, cuộc đời trong lúc khốn cùng nhất cũng không được yên. Lần này bố mẹ Hiền xuất hiện, tôi không trách cứ ai cả mà chì buồn cho thân phận. Ai có con gái mà không muốn nó tìm được người bạn đường xứng đáng. Một sáng chủ nhật, hai ông bà theo dõi con gái khi dẫn xe đạp ra khỏi nhà. Cả hai gọi xích lô bám sát theo sau mà Hiền không hay biết. Đến quán cơm gần quân y viện, Hiền dừng xe lại, vào mua cơm cùng thức ăn bỏ vào gà men, rồi đạp thẳng vào Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm tôi. Bố mẹ của Hiền liền theo vào nhưng chỉ đứng núp ngoài cửa lén nhìn vào. Khám phá ra sự tình hai ông bà lẵng lặng ra về. Sáng hôm sau, hai ông bà trở lại và đến thẳng phòng tôi. Lúc đó tôi đã vào xe lăn ngồi, định ra sân cỏ ngồi hít gió trời thì hai ông bà bước vào. Cả hai đứng nhìn tôi chăm chăm, tôi đang bỡ ngỡ chưa biết là ai thì bố của Hiền lên tiếng trước:

- Chúng tôi là bố mẹ của Hiền, hôm nay đến đây để nói chuyện với cậu.

Tôi ngồi lặng người, không biết hôm qua Hiền đi về có gặp chuyện gì không may không. Đang còn thắc mắc lý do hiện diện của hai ông bà thì bố của Hiền nói tiếp:

- Ngày hôm qua chúng tôi kín đáo đi theo con gái chúng tôi và biết nó đã vào đây thăm cậu. Từ lâu rồi chúng tôi để ý cứ đến chủ nhật là nó vắng mặt cả ngày, hỏi mãi nó cứ nói quanh co. Cho đến hôm qua chúng tôi mới biết rõ ngọn ngành. Lẽ ra chúng tôi đã vào gặp cậu và con gái chúng tôi ngay lúc đó, nhưng vì phép lịch sự không làm kinh động nơi này nên chúng tôi đã tế nhị ra về. Hôm nay chúng tôi đến đây gặp cậu để yêu cầu cậu thông cảm và xa lánh con gái chúng tôi. Nó còn nhỏ lắm, hãy để yên cho nó học hành.

- Thưa bác, Hiền đến đây thăm cháu chỉ vì lòng nhân đạo thôi chứ không vì lý do gì khác - tôi ngạc nhiên đáp lại. Giữa cháu và Hiền đâu có chuyện gì xảy ra.

- Cậu thì nói như vậy chứ ngày hôm qua khi con gái chúng tôi về đến nhà, chúng tôi gạn hỏi thì nó thú nhận rằng nó đã thương cậu và xin chúng tôi rộng lòng thương cảm.

Nghe câu này, tôi như bị sét đánh ngang tai. Tôi ngẩn ngơ, bàng hoàng, tâm thần bấn loạn. Sau một hồi im lặng, tôi run run nói:

- Thưa hai bác, một ngày gần đây cháu sẽ xuất viện. Cháu xin hứa với hai bác là khi rời khỏi nơi đây suốt đời cháu sẽ không bao giờ gặp lại Hiền nữa. Vả lại cháu là người biết tự trọng, với tấm thân tàn phế này cháu cũng biết là không xứng đáng với Hiền đâu. Xin hai bác cứ an tâm.

Nói xong câu đó tôi nhìn thấy gương mặt của hai ông bà lộ vẻ mừng rỡ. Sau đó hai ông bà hỏi thăm tôi về ngày giờ và lý do bị thương tật, gia đình tôi phản ứng như thế nào rồi vui vẻ từ giả ra về.

Chủ nhật tuần sau, cũng là chủ nhật cuối cùng, Hiền đến phòng tôi như thường lệ, nét mặt đượm buồn, bước chân nặng nề, dáng đi chậm chạp. Hiền gượng gạo mở nắp gà men mời tôi ăn. Tôi ngốn nghiếng ăn hết cả cơm và thức ăn không nói lời nào. Thấy tôi ăn gần xong, Hiền vội nói:

- Lần này anh ăn hết gà men cơm như vậy tức là anh sắp bình phục rồi đó, Hiền mừng lắm.

- Tôi cố ăn cho hết để rồi...

Tôi giả bộ như đang nuốt cơm để ngưng nói tiếp, dò xét. Sau cùng tôi quyết định hỏi thêm:

- Hiền ơi, hai đứa mình đã quen biết nhau hơn nửa năm rồi. Ngoài tình bạn ra, Hiền có nghĩ gì khác hơn không?

Hiền cúi đầu, nét mặt trở nên buồn bã, mắt nhìn xa xăm. Một lúc sau, thay vì trả lời Hiền vân vê tà áo, đọc hai câu thơ:

- "Y dài lối rẽ chia ba, sóng nước trào dâng rất đậm đà".

Tôi lúng túng không biết trả lời sao cho hợp ý câu thơ. Ý của Hiền muốn nói trong vế đầu là khi đến thăm tôi Hiền phải đi qua cầu Chữ Y, cầu Chữ Yrất dài và có ba ngã rẽ. Còn vế sau "sóng nước trào dâng rất đậm đà" thì tôi bí. Thật ra tôi cũng đoán là tình cảm của Hiền dành cho tôi rào rạc giống như sóng nước nhưng vì đã hứa với bố mẹ của Hiền, tôi phải giữ lời. Tôi làm bộ như không hiểu:

- Tôi không biết làm thơ. Vậy tôi đối lại bằng hai câu thơ mà tôi đã học lóm được không?

- Anh cứ đối lại đi, nhưng phải phù hợp với ý của Hiền.

- "Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở, tình mất vui khi đã vẹn câu thề".

Nghe xong Hiền vội vã từ giã ra về, những giọt nước mắt chảy dài trên má.

Tôi gọi Hiền lại và xin mượn cái gà men, tôi giả vờ nói khi tối đến tôi hay đói bụng và sẽ nhờ anh em ra ngoài mua thức ăn giùm. Thật ra cái gà men này đối với tôi có một giá trị khác. Nó đã đến với tôi hơn nửa năm trời. Tôi giấu Hiền là ba hôm nữa là tôi sẽ xuất viện, tôi muốn đem cái gà men đó theo tôi suốt đời. Đối với tôi nó không những là một vật dụng thiết thân mà còn là một kỷ vật "thủy chung". Những khi buồn bã tôi sẽ mang nó ra nhìn, tôi muốn nó sẽ là người bạn đồng hành tri kỷ nhất suốt cuộc đời còn lại của tôi.

Ba ngày sau, một ngày thứ tư, tôi ra Hội Đồng Miễn Dịch để được cấp giấy chứng thương rồi sau đó đến Bộ Cựu Chiến Binh làm thủ tục ra trại an dưỡng Vũng Tàu. Trở về trại thu xếp đồ đạc và từ giã anh em. Ra khỏi cửa, tôi quyến luyến quay đầu nhìn lại lần cuối căn phòng đầy kỷ niệm đẹp.

Tôi được xe quân y viện đưa ra thẳng trại an dưỡng Vũng Tàu. Tại đây, mỗi buổi chiều tôi thường lăn xe ra bãi biển ngắm nhìn mây nước quên đi những tháng ngày buồn. Cảnh vật thật đẹp và bình yên. Xa xa là những cánh buồm thấp thoáng giữa biển trời bao la, tôi chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên rộng lớn. Tôi thích nhìn những con dã tràng xe cát. Cuộc đời của chúng thật là phù du, tổ ấm vừa xây xong sóng biển liền phủ lấp. Cuộc đời của tôi không khác gì chúng, một hy vọng vừa lóe lên liền bị thực tại dập tắt. Nhiều du khách tò mò hỏi sao tôi cứ mãi nhìn những con vật đó, tôi làm bộ ú ớ ra dấu bảo họ để tôi yên. Người ta tưởng tôi điên. Thật ra tôi quá chán đời, không muốn trò chuyện với ai.

* * *

Một năm trời đã trôi qua. Cuộc đời của tôi không có gì thay đổi. Người ta gắn cho tôi chân gỗ để tập đi, nhưng tôi không tha thiết lắm. Thân hình dị hợm, đời tôi nát tan. Mỗi buổi chiều tôi vẫn thường ra bãi biển ngắm nhìn mây nước và những con dã tràng xe cát Biển Đông. Cảnh vật thật đẹp...

Tôi nhớ Hiền, nói chuyện với Hiền và mơ thấy Hiền. Nhớ quay quắc. Chiếc gà men không giúp tôi vơi bớt nỗi sầu, nhưng tôi vẫn thích ôm nó vào lòng, để tìm về khung trời kỷ niệm rồi ngủ thiếp. Tôi chỉ thức giấc và vội vã lăn xe về phòng khi tiếng đại thần chung từ các chùa trên núi vọng về. Nỗi buồn bã nhớ thương cứ tăng theo năm tháng. Đôi lúc nghe chim kêu gọi bạn, lòng thật tủi hổ. Tôi cứ lặp đi lặp lại điệp khúc "nhớ Hiền, nói chuyện với Hiền và mơ thấy Hiền".... lòng đầy phiền muộn.

Cứ đến mỗi ba tháng tôi đón xe về Sài Gòn lãnh tiền trợ cấp. Đây là lần thứ tư tôi về lại. Thường thì tôi dậy thật sớm để đón chuyến xe đầu tiên về Sài Gòn và đến ngân khố đường Trương Minh Giảng khoảng 8 giờ sáng. Lãnh tiền xong khoảng 10 giờ thì tôi đón xích lô ra chợ mua vài món đồ cần thiết cho tôi và cho bạn bè rồi ra bến xe về lại Vũng Tàu. Nhưng hôm nay đi gần tới Long Thành thì xe đò bị hư máy, phải đến gần trưa tôi mới đến được. Vừa bước xuống xích lô, tôi giật mình thấy Hiền đứng dựa lưng trước cửa cổng nhìn tôi chăm chăm. Tôi giả bộ như không quen biết, cúi đầu chống nạng vào. Tôi tin rằng Hiền sẽ không nhận ra tôi sau một năm trời xa cách. Da tôi xạm màu nắng cháy, thân hình tôi có mập hơn xưa, thêm vào đó tôi có để cặp ria mép.

- Anh! - Hiền khẽ gọi.

Biết không tránh được, tôi cố dằng xúc động, nhìn Hiền không chớp mắt.

- Có phải là anh đó không? - Hiền tiếp tục hỏi khẽ, giọng xa xăm. Đây là sự thật hay trong mơ, anh là ảo ảnh hay là hiện thực?

Tôi giả bộ cúi xuống sửa lại ống quần, dựng lại chiếc nạng cho ngay ngắn, rồi thốt lên một câu vô duyên:

- Hiền mạnh khỏe chứ?

Hiền lặng người nhìn tôi một lúc, nắm chặt lấy tay tôi, rồi dìu tôi vào cổng. Suốt đoạn đường ngắn ngủi, Hiền hỏi dồn về tôi, về cuộc sống của tôi. Tôi làm như vẻ lì đời, tỉnh bơ nói:

- Tôi vẫn bình thường. Mình nên tìm chỗ để ngồi nói chuyện cho thoải mái hơn.

Hai chúng tôi tìm được một chỗ khá yên tịnh giữa những tiếng ồn ào của những người vào lãnh tiền.

- Hiền vẫn đi học bình thường chứ?

- Hiền đã nghỉ học từ ngày anh ra đi.

- Thôi dù sao thì chuyện cũ cũng qua rồi, quên nó thì hay hơn. Tôi cũng thành thật xin Hiền tha lỗi, tôi đã hứa với bố mẹ Hiền là khi rời khỏi bệnh viện tôi sẽ suốt đời không gặp lại Hiền nữa.

- Hiền đã biết chuyện đó rồi và cũng chính vì vậy đã bỏ học đi tìm anh từ hơn một năm nay. Hiện giờ anh ở đâu?

- Là cánh chim giang hồ, nay đây mai đó, nơi nào cũng ở được - tôi đánh trống lãng vì không muốn để lộ nơi đang an dưỡng.

- Hỏi cho vui vậy thôi. Anh ở đâu Hiền cũng không cần biết. Chỉ biết anh còn sống, khỏe mạnh là Hiền vui rồi.

Nói chuyện suốt hai giờ liền, chúng tôi quên cả thời gian. Sực nhớ mình đến đây để lãnh tiền, tôi vội vàng đến ghi sê nạp sổ nhưng quá trễ. Nhân viên giữ quầy cho biết:

- Ở đây chỉ thu sổ buổi sáng mà thôi. Sáng mai mời anh đến lại.

Tôi cự nự vài câu rồi ra nói lại với Hiền.

- Hôm nay trễ rồi. Hiền về đi, sáng mai anh trở lại nộp sổ.

- Anh cho Hiền xem quyển sổ coi, anh lãnh bao nhiêu tiền trong ba tháng.

Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng đưa cho Hiền coi. Xem xong Hiền xếp lại và nói:

- Anh đã về đây ba lần rồi nhưng sao Hiền không gặp? Thôi, để quyển sổ này cho Hiền giữ. Tám giờ sáng mai Hiền sẽ đến sớm nộp cho anh.

Không hiểu sao tôi lại đưa cho Hiền giữ quyển sổ cấp dưỡng rồi chia tay. Tôi đón xe lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm một vài anh em và ngủ lại đó. Đúng tám giờ, Hiền đến và đưa tôi quyển sổ để nạp lãnh tiền. Sau đó hai chúng tôi ra ngoài cổng ăn sáng. Ăn xong tôi gọi xe xích lô và từ giã Hiền. Anh xích lô hỏi:

- Anh đi đâu?

- Cứ chạy đi, tôi sẻ chỉ đường sau.

Hiền bụm miệng đứng cười. Hiền biết tôi muốn giấu nơi ở và tôi cũng ngây thơ không nghĩ rằng Hiền sẽ đạp xe chạy theo. Tôi nói anh đạp xích lô chạy về hướng bến xe Vũng Tàu. Xuống xe, tôi lật đật mua vé và lên xe đò đi ngay về Vũng Tàu. Trên suốt đường về, lòng vẫn còn xúc động. Tôi chẳng nhớ mình đã làm gì sau đó. Đang nghỉ ngơi suy tưởng lại chuyện vừa xảy ra, vào khoảng giữa chiều anh gác dan chạy vào nói tôi có người nhà đến thăm. "Ủa, tôi có cho gia đình hay biết chỗ này đâu mà đến thăm", tôi thầm hỏi. Chưa kịp thắc mắc xong, Hiền đã xuất hiện ngay trước phòng tôi. Nét mặt rạng rỡ, đôi mắt tò mò. Căn phòng của tôi tự nhiên quá hẹp để đón nhận hạnh phúc này.

- Hiền xuất hiện như một bóng ma làm tôi sợ quá nên chưa kịp ra đón - tôi nhìn Hiền nụ cười toe toét trên môi.

- Rất đúng. Hiền sống như một bóng ma từ khi vắng anh. Tìm anh mãi đến bây giờ mới bắt được.

Tôi chỉ biết mỉm cười, nhìn Hiền chăm chăm lòng vui khó tả.

- Cánh chim giang hồ làm tổ nơi đây à? - không chờ tôi trả lời, Hiền nghiêm nét mặt hỏi sang chuyện khác. Ơ? đây có câu lạc bộ không anh?

Tưởng Hiền khát nước hay đói bụng, tôi xăng xít chỉ qua bên kia đường. Hiền liền bước sang mua về hai ly sữa tươi, đặt lên bàn nói:

- Anh uống đi cho khỏe rồi Hiền nói chuyện này cho anh nghe - nét mặt Hiền khẩn trương.

- Chuyện gì vậy?

Hiền liền thọc tay vào túi quần lấy ra hai típ thuốc ngủ.

- Đây Hiền một típ, anh một típ. Anh không uống thì Hiền sẽ uống một mình.

Nói xong, Hiền đặt một típ lên bàn đẩy về phía tôi. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì Hiền mở nắp đổ nguyên típ thuốc ngủ kia lên bàn tay rồi tay kia cầm ly sửa đưa lên miệng. Tôi kinh hoảng phóng mình tới đánh mạnh vào tay Hiền, những viên thuốc ngủ màu trắng văng tứ tung xuống nền gạch. Hiền bực mình dằn mạnh ly sửa xuống, gục mặt trên bàn khóc rấm rức. Tôi vội vàng ngồi xuống lượm từng viên thuốc trắng bỏ vào típ, đây nắp cẩn thận rồi đem cả hai cất vào tủ khóa lại kỹ lưỡng. Tôi nói:

- Trên đời này tôi không thích bị làm áp lực, tôi là con người biết giữ tự trọng. Lần thứ nhất, ngoài chiến trường tôi đã cắt bỏ khúc chân trái vì không muốn bị vướng bận và cũng không muốn kêu la khi đồng đội đang trực diện với kẻ thù. Trước khi xuất viện cũng vậy, tôi không muốn làm phiền gia đình của Hiền nên đã hứa với bố mẹ của Hiền không liên lạc nữa. Tôi chấp nhận chịu đau nhưng quyết không để thua cuộc, nhưng có lẽ hôm nay tôi không còn giữ nổi lời hứa đó. Hiền đã thắng, tôi đã thua.


Nghe nói đến đây, Hiền nhìn tôi mỉm cười, quẹt nước mắt chạy đến ôm chầm lấy tôi. Tôi sung sướng ôm Hiền vào lòng và thay đổi luôn cách xưng hô:

- Thôi em đừng nghĩ đến cái chết nữa. Cuộc đời này hãy còn quá đẹp để sống. Em nghe kìa, ngoài kia tiếng chim gọi bạn. Ngày trước anh cũng thầm gọi tên em như vậy nhưng không dám mơ ước gì hơn, chỉ biết buồn tủi cho thân phận. Hôm nay có em bên cạnh, anh mừng hết lớn.

Hiền im lặng xiết chặt lấy thân tôi. Hai đứa ôm nhau một hồi lâu tôi mới giật mình lên tiếng:

- À, Hiền nè, có một vấn đề hơi tế nhị là trại an dưỡng này không cho phép phụ nữ vào thăm ở lại qua đêm. Trước đây có nhiều anh em dẫn về trại những phụ nữ không được tiếng tốt, từ đó trại hạn chế hẳn việc này. Bây giờ thì em cứ ở lại chơi với anh, khi tối đến anh sẽ dẫn em ra ngoài thuê phòng ở tạm.

Hiền ngoan ngoãn gật đầu, nét mặt vui sướng. Chúng tôi vui vẻ nói chuyện với nhau thật lâu, nói về chuyện đời, nỗi nhớ mong, nỗi khổ cực và cả chuyện tương lai. Hiền vui vẻ ngồi trong vòng tay của tôi, âu yếm sờ hàm râu lởm chởm của tôi chưa cạo và chỉ biết gật gù. Tôi sung sướng được vuốt và ngửi mái tóc đen huyền của Hiền. Thân hình của Hiền tựa sát vào người tôi khiến tôi có những cảm giác rạo rực. Thời gian trôi qua nhanh quá, chúng tôi dường như không thể rời nhau được nữa. Tôi chợt thắc mắc:

- Hiền ơi, em đi như thế này ở nhà bố mẹ em biết đâu mà tìm?

- Anh hãy yên tâm, trước khi đi Hiền có về nhà viết thư để lại cho bố mẹ nói rằng Hiền đã gặp lại anh và cho biết sẽ đi theo anh nhưng chưa biết đi đâu, khi nào ổn định được chỗ ở em sẽ về cho bố mẹ biết.

- May quá, hiện nay chính phủ đang có chương trình cấp phát nhà ở cho thương phế binh. Anh tưởng mình sẽ ở vậy suốt cuộc đời nên không làm đơn, nay có em đây thì anh sẽ làm. Cũng báo cho em biết để mừng là chính phủ dành ưu tiên cho những người đang còn ở trong những trại an dưỡng như anh. Ngày mai anh sẽ làm đơn, khi được chấp thuận mình sẽ về đó ở thoải mái hơn.

Cuộc tình đầy gian nan và thử thách đến đây kết thúc. Một tương lai tươi đẹp mở ra, cho tôi và cho Hiền. Chúng tôi liên lạc với bố mẹ Hiền, hai ông bà lúc này cũng đã thay đổi, không những không chống việc Hiền dọn về ở với tôi trong một làng phế binh ở Thủ Đức mà còn giúp chúng tôi mua sắm những vật dụng cần thiết trong nhà, thỉnh thoảng hai ông bà còn đến thăm chúng tôi. Sau đó Hiền hối tôi phải liên lạc lại với gia đình, thông báo về hoàn cảnh thương tật và chuyện lập gia đình của tôi. Lúc đầu cha mẹ tôi khóc lóc thương tiếc cho thân phận tôi, sau thấy tôi có người vợ tận tình chăm sóc hai ông bà cũng yên lòng. Tôi chỉ tiếc là chưa báo hiếu được cha mẹ thì đã bị tàn tật.

Ăn ở với nhau được vài năm, chúng tôi sinh được hai mụn con, đứa đầu lòng là một bé gái, đẹp và hiền như mẹ của nó. Con cái chúng tôi ngày ngày cắp sách đến trường, học và chơi với những bạn đồng trang lứa, sống thật vô tư. Cuộc sống của chúng tôi không giàu nhưng cũng không nghèo, tôi phụ giúp vợ tôi mua bán ngoài chợ. Chúng tôi sống trong hạnh phúc, tin tưởng vào một ngày mai sáng lạn.

Ngoài đời cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Tin tức chiến trường ngày càng bất lợi. Ban Mê Thuột thất thủ, Đà Nẵng bị bỏ rơi. Rồi Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Pleiku, Kontum, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Đà Lạt... Tôi bực mình vì mất khả năng chiến đấu, nếu không đã ra lại chiến trường cùng các bạn chiến binh bảo vệ đất nước thân yêu.

Thế là hết. Quân cộng sản đã tiến vào thủ đô. Ngày 30-4-1975, đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh yêu cầu anh em binh sĩ buông súng. Tủi nhục, ôi thật tủi nhục. Làm sao rửa được mối nhục này. Đồng đội của tôi biết bao nhiêu người đã xiết cò tự sát. Một số khác quyết chiến đến cùng, chết bờ chết bụi không có thân nhân.

Những ngày đầu dưới ách cộng sản, trời sầu đất thảm, mưa gió tơi bời. Tại một số nơi, dân chúng thiếu ăn kéo đến các kho dự trữ lấy gạo, nhiều người bị bắn chết xác nằm la liệt. Bất cứ hành động nào tình nghi đe dọa chính quyền mới đều bị tuyên án tử hình, nhiều án được thi hành vội vã ngay giữa đường phố hay bùng binh chợ.

Có một lần tại chợ Bình Tây, dưới chân tượng ông Quách Đàm, người cán bộ đầu đội nón cối, chân đi dép râu trắng, dáng người ốm đói dẫn tử tội ra giữa đám đông cho dân chúng nhìn. Tử tội tay chân bị trói ngoặc, đi đứng khó khăn, mắt thì bịt kín, miệng dán băng keo, trước ngực đeo bản án. Tay phải người cán bộ cầm khẩu K54 đã lên đạn sẵn, tay trái béo lỗ tai tử tội lên phía trên, rồi dí nóng súng vào phía sau lỗ tai bóp cò. Một tiếng "chát" vang lên, người tử tội ngã xuống. Thân hình co quắp, giật giật mấy cái rồi nằm im, óc và máu phun ra từ phía lỗ hỗng bên kia màng tai. Chưa hết, người cán bộ còn kê súng vào màn tang tử tội bắn phát "ân huệ", đầu tử tội bật sang một bên, da và vài mảnh sọ bung lên, óc và máu tuôn ra ri rỉ. Dân chúng sợ hãi bỏ đi không dám nhìn lại. Một toán bộ đội từ trên một chiếc xe Molotova đậu sẵn nơi đó, nhảy xuống kéo xác tử tội quăng lên xe chở đi đâu mất.

Trong thời quân quản, không một chợ nào, bùng binh nào, ngã năm ngã sáu nào không xảy ra những cảnh máu chảy đầu rơi.

* * *

Riêng về tập thể thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, sự trả thù của chế độ mới không kém phần ác độc. Tất cả các làng phế binh tại các tỉnh thành đều bị giải tán, gia đình phế binh bị đuổi khẩn cấp ra khỏi nhà, mỗi người chỉ có một bộ đồ che thân, không một vật dụng nào được mang theo dù là một cái chén. Tại Sài Gòn, ban quân quản ra khẩu lệnh cho chính quyền địa phương giải tỏa bốn làng phế binh. Riêng làng phế binh Thủ Đức, lớn nhất, có bốn ngàn gia đình đang sinh sống trong đó có gia đình tôi, tất cả phải dọn đi trong vòng một tháng. Những gia đình nào không chịu đăng ký đi về quê hay vùng kinh tế mới, đám du kích "30" đến làm áp lực buộc phải dọn đi, cuối cùng chỉ còn khoảng một phần mười gia đình ở lại. Đối với những người này, chính quyền địa phương dùng mọi thủ đoạn để xiết bao tử, không cho làm bất cứ điều gì để rồi đói quá cũng phải dọn đi. Chế độ cộng sản muốn tiêu diệt luôn cả những người đã từng đối địch với họ, dù cho thân thể có bị tàn phế.

Lúc bấy giờ tôi chợt nhớ có một người bạn cùng đơn vị tên là Sum Ri, người Thượng, ở gần Tháp Chàm Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Tôi cùng đứa con gái lớn tên Diệu Hiền đón xe lên nhà anh Sum Ri nhờ giúp tìm một miếng đất để trồng khoai bắp sinh sống, tránh cảnh áp bức tại Sài Gòn. Tôi ở nhà anh một đêm, nghe ngóng tình hình. Sáng hôm sau, anh Sum Ri dẫn chúng tôi đến một địa điểm cỏ cây um tùm, anh nói:

- Cách đây không xa có một cái đồn cũ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đất ở đó tốt lắm.

Tôi cùng con gái đi với anh Sum Ri tới đó. Chúng tôi thấy một cái đồn nhỏ nằm trên ngọn đồi cô quạnh, cỏ hoang mọc lấp cả lối đi. Sau một hồi vạch cỏ tìm đường, cuối cùng anh Sum Ri cũng dìu tôi lên tới đỉnh đồi. Đến nơi mới thấy mái đồn đã bị đổ sụp, tường vách đen ngòm rêu phong bám đầy. Các vách tường lỗ chỗ hghim đầy vết đạn, có lẽ đồn đã bị sụp trong những ngày cuối tháng 4-75. Anh Sum Ri chỉ vào nói:

- Anh chỉ cần vào rừng đốn vài cây tre làm đòn dông thả ngang trên nóc rồi cắt cỏ tranh phơi khô lợp lại mái nhà là ở được rồi đó vì mấy vách tường còn nguyên vẹn.

Tôi mừng quá tiến tới nhìn vào. Thật là khủng khiếp. Một cảnh tượng ghê rợn hiện ra. Tôi thấy trên nền đất rêu đen mấy cái đầu lâu trắng hếu, bên cạnh là những mẫu xương trắng lòi ra dưới lớp áo quần mục nát bị cỏ che khuất nhiều phần. Mùi ẩm mốc bốc lên nồng nặc. Tôi rùn mình lùi lại. Anh Sum Ri im lặng. Con gái tôi mặt trắng bệt, thân hình rung lẩy bẩy. Một hồi sau nó mới nói nên lời.

- Về đi ba, con sợ quá!

Bên ngoài bầu trời nắng ấm, người tôi cứ thấy lạnh. Chim rừng tiếp tục ca hát líu lo, tôi sao chỉ nghe toàn lời ai oán. Hai chúng tôi lịm người đứng im. Một lúc sau định thần trở lại, tôi chắp hai tay cầu nguyện: "Lạy Thượng đế, xin Ngài che chở cho những linh hồn này, những người chiến sĩ vô danh không ai hay biết này". Nhìn anh Sum Ri, tôi chán nản:

- Đời là bễ khổ. Anh thấy không, những chiếc đầu lâu nằm ngổn ngang với lóng xương khô là hồn thiêng sông núi đó. Hận thù này bất diệt, bất khả tiêu. Thôi gặp Sum Ri lần này, tôi về lại Sài Gòn kể như mình vĩnh biệt. Cảm ơn Sum Ri đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi. Sống trong hang cọp, may rủi là định mệnh của con người không ai tránh khỏi, anh hãy cẩn thận.

- Anh về rồi họ đuổi nhà, gia đình anh ở đâu?

- Kể từ nay, đời tôi kể như bèo dạt mây trôi, sống ở đâu cũng được, không có nơi nào nhứt định. Nhưng tôi quyết ở lại Sài Gòn.

Sau hai ngày đi tìm đất sống mới vô vọng, tôi cùng con gái đón xe về lại Sài Gòn. Đường dài và bụi bặm, con gái tôi dựa đầu nằm ngủ trên vai tôi. Nhìn cảnh vật hai bên đường, lòng tôi đau xót. Đất nước thật đẹp mà sao lại đào tạo ra một giống người độc ác, chỉ biết hung hăn giết hại đồng bào. Chúng tôi ngồi kế bên một bà cụ và anh bộ đội, cuộc đối thoại của hai người làm tôi chú ý.

- Ở ngoài Bắc gọi là kiểm kê, tịch thu, còn trong Nam gọi bằng gì hở cụ? - anh bộ đội lễ phép hỏi.

- Ở trong Nam gọi là ăn cướp - bà cụ không ngần ngại trả lời và còn nói tiếp. Tao đã bỏ xứ chạy vào Nam mấy chục năm trời nhưng giờ đây lại gặp chúng mày nữa.

- Không đâu cụ ạ - anh bộ đội thật thà giải thích. Chúng cháu cũng chỉ là nạn nhân của chế độ mà thôi. Chúng cháu mặc bộ đồ này cũng tủi nhục lắm cụ ạ. Trên đường số 1 tiến về Sài Gòn, bộ đội chúng cháu khi lỡ đường khát nước vào nhà dân xin nước uống, họ bảo chúng cháu đứng ngoài sân chờ họ đem nước ra chứ không cho vào nhà. Thưa cụ, chính vì thế chúng cháu mới biết chế độ này không được lòng nhân dân. Rồi khi vào Nam thì sự thực không đúng như người ta đã bảo với chúng cháu. Nơi đây không bị kềm kẹp và cũng không bị thiếu đói. Mọi người còn tỏ ra yêu thích "Mỹ Ngụy" và chê cười chúng cháu là quê mùa.

Tôi đang buồn rã ruột nhưng khi nghe hai người đối thoại cũng phải phì cười. Về đến nhà, vợ con chạy ra mừng đón.

- Thế nào, ở trên đó có thể sống được không? - vợ tôi hỏi.

- Ghê lắm má ơi - con gái tôi vội cướp lời. Bác Sum Ri dẫn ba đến chỗ gì mà con thấy hàng chục cái sọ người nằm ngổn ngang dưới đất. Thà ở lại đây chết sướng hơn. Con không đi nữa đâu.

- Thôi, mình cứ liều mạng ở lại đây - tôi an ủi vợ tôi. Bầu trời đã đen tối, đi đâu cũng chỉ là bóng tối mà thôi. Không làm gì có mặt trời ở giữa đêm. Nếu kẹt quá thì mình về lại nhà cha mẹ ăn nhờ ở đậu.

Sau ba tháng cầm cự với những "hàng xóm" mới, toàn là bộ đội từ miền Bắc vào, gia đình chúng tôi cũng bị "mời" đi nơi khác. Cũng may lần này chúng tôi được mang theo tất cả đồ đạc. Cha mẹ của Hiền cũng tử tế, đã cho chúng tôi sang sẻ căn nhà chật hẹp trong một hẻm nhỏ ở đường Dương Bá Trạc, quận 6. Hiền sáng sớm ra chợ Rạch Ông buôn bán với mẹ già, còn tôi học thêm nghề vá bánh xe đạp và xe gắn máy, con cái chúng tôi cũng được cho ghi tên đi học lại.

Tháng ngày lại lặng lẽ trôi qua. Trên vùng kinh tế mới cuộc sống thiếu thốn trăm bề, dân chúng thiếu ăn, trẻ con không có trường học, bệnh tật không có thuốc chữa, mạng người như cỏ rác. Những người sống sót, không chịu đựng nổi cảnh rừng sâu nước độc và thiếu đói, đã lần lượt mò về thành phố. Mất nhà mất cửa, họ làm những túp liều tranh vách giấy sống tạm trong các nghĩa địa chung quanh thành phố và vùng ngoại ô, đời sống thật là lầm than. Trẻ em chực chờ ở các quán cơm xin thức ăn thừa, chút canh cặn khi khách vừa đi. Nhiều em đã bị "quản lý" chợ đánh đập tàn nhẫn, các em van khóc: "Bác ơi, đừng đánh tụi con nữa. Tụi con đói quá". Cha của các em phần lớn là thương phế binh còn khốn khổ hơn nhiều, thân xác đã mỏi mòn, tinh thần còn bị tủi nhục. Sống kiếp ăn xin, nào ai có hãnh diện gì.

Nhìn hoàn cảnh sinh sống của anh em phế binh tôi như người mất trí, đầu óc rối loạn. Cũng may nhờ có Hiền luôn ở bên cạnh giúp đỡ, an ủi.

- Mỗi ngày ra chợ buôn bán, em thấy đời sống anh em phế binh khổ sở quá. Anh thử nghiên cứu, suy nghĩ tìm ra một giải pháp nào có thể giúp anh em phế binh thoát cảnh sống lầm than, không phải đi ăn xin và sống trong danh dự xem. Em nghĩ nếu mọi người cùng suy nghĩ và tìm ra được giải pháp thì đó cũng là một cách đền bù sự hy sinh không riêng gì cho cá nhân anh mà còn cho cả tập thể phế binh.

- Trời ơi, đầu óc anh đang cơn điên loạn, còn tỉnh táo gì đâu mà nghiên với cứu.

- Thôi, anh đừng quá bi quan, dầu sao thì cũng còn có em đây. Em có sáng kiến này không biết có làm anh vừa lòng và có mang lại kết quả nào không. Em nhận thấy từ ngày thay đổi chế độ, dân chúng trở nên sùng đạo, không nhà nào không dùng nhang đèn cho những nhu cầu thường ngày. Nhiều người quá chán cuộc sống đi chùa, đi miếu và đi tu rất nhiều. Thờ cúng thì phải đốt nhang. Số lượng nhang đèn tiêu thụ rất là lớn, do đó phải có nơi sản xuất. Hiện nay, theo chỗ em biết, chỉ có các chùa mới làm nhang đèn. Vậy anh thử đi dò hỏi xem chùa nào sản xuất nhang, đến thương lượng với các thầy mua lại nhang đèn với giá sỉ rồi đem về đưa anh em phế binh đi bán lại thử xem. Em và mẹ em sẵn sàng xuất vốn trước anh em chỉ cần trả lại vốn, còn tiền lời để họ chi tiêu cho gia đình. Được như vậy, cuộc sống của anh em phế binh chúng ta bớt phần nhục nhã.

Trời ơi! Vợ tôi, cô Nguyễn Thị Hiền này, thật là có lý. Ngày hôm sau, tôi chống nạng lộc cộc tìm đến các chùa sản xuất nhang, mua thử một ít về giao lại cho những anh em phế binh gần nơi cư ngụ mang đi bán. Cũng may số lượng nhang mang đi bán không nặng lắm nên anh em có thể mang đi xa để bán. Kết quả không ngờ, thành công tuyệt đối. Tôi cùng một vài anh em khác đi đến các chùa thương lượng các nhà sư bán nhang thiếu đem về cho anh em phế binh đi bán dạo kiếm sống.

Kể từ đó phong trào phế binh đi bán nhang tại thành phố Sài Gòn trở nên rầm rộ. Tôi rủ một vài anh em đi xuống các tỉnh bán, tại đây chúng tôi gặp một số anh em phế binh cũng đang sống kiếp ăn xin. Chúng tôi họp lại và phổ biến ý kiến đi mua nhang ở các chùa về bán lại, anh em phế binh tại những nơi này hoan nghênh nhiệt liệt. Cũng nhờ đi bán nhang anh em chúng tôi cảm thấy cuộc sống đỡ tủi nhục và tấm lòng của nhân dân. Tưởng đã bị đời từ lâu quên lãng, nhưng không. Bà con cô bác không những mua nhang đèn cho nhu cầu thường ngày mà còn khuyến khích, ủng hộ tinh thần chịu khó của anh em. Sự trao đổi giữa người và người trở nên bình đẳng.

* * *

Công việc tiến hành đều đặn, chỉ những anh em phế binh nào quá khó khăn mới tiếp tục ăn xin. Tôi muốn nhân dịp tìm hiểu thêm dân tình. Tôi thử trắc nghiệm hai nơi nổi tiếng là thành trì của "cách mạng", một là Bến Tre, "quê hương đồng khởi", và Củ Chi, "thành đồng đất thép".

Năm 1990, tôi rủ năm anh em đi xuống tỉnh Bến Tre bán nhang. Riêng tôi thì giả mặc quần áo bộ đội, đầu độ nón cối, hai khúc chân gỗ cho mang dép râu, lưng đeo bị nhang, chống nạng đi trước. Bốn anh em kia thì mặc đồ biệt động quân, nhảy dù, thủy quân lục chiến lục tục đi sau. Tôi đi từ sáng đến trưa mà chẳng bán được một thẻ nào hết, nhà nào tôi vào mời cũng lắc đầu từ chối và còn nhìn tôi với ánh mắt khó chịu như muốn xua đuổi. Tôi có cảm tưởng dân chúng tại "quê hương đồng khởi" này trở nên vô thần, không ai nghĩ đến chuyện thờ cúng. Buổi chiều họp nhau lại kiểm điểm thành tích, tôi mới thấy mình sai: chỉ có tôi chẳng bán được thẻ nhang nào, còn bốn anh em kia được dân chúng rủ nhau mua hết.

Lần thứ hai, tôi hướng dẫn năm anh em khác đi xuống bán nhang tại Củ Chi. Tôi cũng mặc lại bộ đồ bộ đội đi trước. Năm anh em kia mặc đồ các binh chủng cũ đi sau, mỗi người đi một nẻo. Tôi đi từ sáng đến trưa, nói khan cả cổ chỉ bán được bốn thẻ nhang. Đến một gốc cây trước căn nhà lợp ngói cổ, tôi ngồi xuống nghỉ mệt vì không còn đủ sức để đi tiếp. Một ông cũ khoảng 80 hoặc 90 tuổi từ bên trong chống gậy đi ra, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi cất tiếng hỏi:

- Câu là thương binh mà cũng đi bán nhang nữa à?

- Dạ để phụ giúp thêm cho gia đình nên con phải đi bán.

Thấy mặt tôi nhễ nhại mồ hôi, ông cụ mời:

- Mời cậu vào nhà uống nước.

Ông cụ đi trước, tôi ngồi dậy chống nạng theo sau. Vào nhà ông cụ chỉ cho tôi một ghế ngồi rồi hỏi:

- Chắc cậu cũng đi kháng chiến lâu năm rồi phải không?

- Dạ cũng hơi lâu lâu - tôi ngập ngừng.

Ông cụ chỉ tay lên bàn thờ và nói:

- Con tôi cũng đi như cậu, bây giờ nó đã lên bàn thờ kia ngồi từ Tết Mậu Thân.

Thấy tôi không góp ý gì thêm, ông cụ nhìn tôi quan sát:

- Cậu đi từ bao lâu mà túi nhang còn nguyên vậy, chưa bán được gì sao?

- Thưa cụ, con đi bán từ sáng sớm nhưng mời không ai mua.

- Nếu không ai mua thì tôi chỉ cho cậu một chỗ này đến đó thì bán hết liền.

- Bán ở đâu vậy cụ, nhờ cụ chỉ giùm - tôi mừng rỡ hỏi.

Ông cụ đột nhiên trở giọng, nhìn tôi trừng trừng quát lên:

- Mày đem ra gò mả mà bán, cứ một cái mả mày đốt một bó nhang rồi cặm xuống đó. Nếu họ mua chịu, bao giờ mày chết xuống dưới âm phủ họ sẽ trả cho. Tổ mẹ tụi mày. Cái thứ quân ăn cướp như mày mà cũng đi bán nhang, tao đã nuôi tụi mày hết nửa đời người, con tao chết không thằng nào nhớ tới, thân tao già không thằng nào hỏi thăm. Quân cách mạng như tụi mày là đồ vô ơn bạc nghĩa. Đúng là dưỡng hổ di họa.

Ông già đứng dậy, quăng cái ly xuống nền gạch bể tan, chỉ vào tôi thét lên:

- Đi! Đi ra khỏi nhà tao ngay lập tức.

Sợ quá, tôi quơ cặp nạng khập khiểng đứng dậy lùi ra phía cửa. Ra khỏi nhà, tôi đi một mạch tới một gốc cây khác thở mệt nhọc. Thật là buồn. Những người đã hy sinh trong chiến đấu, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến đều bị những cấp lãnh đạo của họ bỏ rơi.

Tôi không trách cụ già đã chửi tôi, người cha nào mất con mà không đau đớn. Tội nghiệp cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua, trong đó có anh em chúng tôi và cả những người bên kia. Anh em chúng tôi thì không nói gì, miền Nam thua trận không ai chăm sóc chúng tôi thì còn giải thích được. Còn phe thắng trận thì không hiểu nổi. Chiếm xong miền Nam họ có dư quyền lực và tiền của để chăm sóc những gia đình "cách mạng" đã vì họ hy sinh, nhưng tất cả đều bị bỏ rơi. Điều này cho thấy sự giả dối của người cộng sản, chỉ những ai đã từng nghe theo sự tuyên truyền của phe cộng sản mới thấm thía sự lường gạt này. Tự nhiên tôi cảm thấy không có gì quan trọng trên đời này cả, tất cả chỉ là sự lường gạt. Lường gạt tình cảm và lường gạt cả mạng sống của người dân. Tôi và những bạn bè phế binh què cụt đang lang thang trên các đường phố bán nhang hay ăn xin trên các vỉa hè kia đều là nạn nhân của sự lường gạt đó.

Chán quá, tôi lột bỏ bộ đồ "ác ôn" kia ra và bỏ luôn bị nhang lại gốc cây, thay bộ quần áo dân sự rồi đi ra bến xe chờ "đồng đội". Ra tới bến xe khí trời trở nên nóng gắt, tôi cởi phăng những nút áo cho dễ thở, mặt đỏ gay, mồ hôi thấm ướt cả áo quần. Các anh em khác từ đằng xa tiến tới, người thì chống nạn, kẻ đi cà nhắc, cười nói huyên thuyên, nhìn họ tôi mỉm cười. Trong khốn khó, người ta dễ có những niềm vui thật bình thường như sung sướng được hít một không khí trong lành, uống một ly nước đá lạnh hay bán được một thẻ nhang. Đời lính tráng nhiều lúc cũng thật vô tư. Tất cả nhìn tôi cười toe toét:

- Bang chủ cái bang hôm nay bán hết sớm quá há. U?a, cái bị nhang của bang chủ đâu rồi, bộ bán luôn rồi hả?

- Bán cái con mẹ gì. Đ... mẹ, đi mệt đờ người, vừa ngồi nghỉ tạm dưới gốc cây thì một già mời vô uống nước. Tao tưởng trúng số. Nào ngờ gặp trúng ông già ó đâm, ổng tưởng tao là Việt Cộng nên chửi cho tao một trận, đuổi ra khỏi cửa. Buồn quá nên tao bỏ hết đi mình không ra đây.

- Ổng chửi Việt Cộng chứ có chửi anh đâu mà buồn.

- Biết rồi, nhưng kẹt một cái là tao không giải thích được thì kể như ổng đã chửi tao. Ổng có thằng con theo Việt Cộng bị chết năm Tết Mậu Thân, ổng tức vì thằng đó chết cho Việt Cộng mà khi chiem quyền xon không thằng Việt Cộng nào mò tới thăm gia đình ổng. Thằng con bây giờ ngồi trên bàn thờ, hương tàn khói lạnh. Nói thì nói vậy thôi, cuộc thử nghiệm này như vậy là thành công, có thử lửa mới biết vàng thau. Chế độ này trước sau gì cũng tàn, mình ráng sống để mà xem chính nội bộ tụi nó sẽ tự làm thịt lẫn nhau cho mà coi. Thôi anh em mình về lại Sài Gòn.

* * *

Hơn tám ngàn ngày đã trôi qua, chúng tôi sống lê thê theo ngày tháng, lê bước chân trên khắp nẻo đường của đất nước, từ cố đô Huế cho đến tận mũi Cà Mau. Tôi thường đi bán ở những vùng duyên hải, với hy vọng có dịp nào đó "tìm đường" thoát thân. Có một lần đi ra mũi Né, khi xe đến eo biển thì dừng lại, nơi đây "lầu của nhà thơ Hàn Mạc Tử". Nhớ lại câu chuyện trao đổi với Hiền, người nữ sinh Gia Long cách đây hơn hai mươi năm, tôi quyết định ở tạm lại đây một buổi chiều.

Khoảng ba giờ chiều, trời mưa lất phất. Tôi bước vào quán cơm, ăn vội vã một món gì đó rồi đi vào núi ông Hoàng. Tôi muốn lên đó xem cảnh vật nhưng cụt hai chân thì làm sao leo núi. Ngồi suy nghĩ một lát, tôi đã có cách, phải lột hai chân giả ra rồi từ từ bò lên. Phải mất hai giờ tôi bò đến nơi, mồ hôi ướt đẫm. Nằm trên một bệ đá bên đường nghỉ một lát, tôi từ từ hồi sức, gắn lại chân giả và chống nạng đi về phía lầu ông Hoàng. Cảnh vật nơi đây xinh đẹp, cỏ cây hoa lá đủ màu đủ sắc.

Từ lầu ông Hoàng, tôi nhìn ra bãi biển, nhìn về phía xa xăm và không nghĩ được gì. Lạ thật, có những lúc cần phải mơ mông, tôi không thể mơ. Tôi cố hình dung cuộc sống tốt đẹp tại nơi xứ người nhưng đầu óc mù tối, chỉ thấy trời xanh mây nước chập chờn, chỉ nghe tiếng sóng vập vờ trên bãi cát. Tôi chỉ biết mỗi một điều là bên kia bờ đại dương, người ta được sống trong tự do, bình đẳng và tình người, còn bên này là địa ngục trần gian, ít ra là đối với tôi. Đời tôi không có lối thoát, gia đình và con cái tôi không có ngày mai.

Tôi tự an ủi nhủ thầm có lẽ ngày xưa Hàn Mặc Tử cũng ra đây nhìn trời nhìn nước như tôi, ông có cái tài làm thơ, còn tôi chẳng có gì hết. Cả hai chúng tôi đều tật nguyền, nhưng tôi còn có vợ con, bạn bè bên cạnh, yêu thương và chia sẻ với tôi nỗi bất hạnh, còn ông thì sống cô đơn một mình, bị đời hắt hủi. Chính vì bị đời hắt hủi ông mới làm được những áng thơ hay, đóng góp cho văn học nước nhà. Đêm nay bầu trời lại có trăng, tôi nhớ lõm bõm vài câu thơ: "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu, đợi gió đồng về để lã lơi..." hay "Không gian dầy dặc toàn trăng cả, tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng, mỗi ảnh mỗi hình thêm phiếu diểu, nàng xa xôi quá nói nghe chăng?".

Trăng của Hàn Mạc Tử là trăng thơ mộng, trăng của tôi ngày nay u ám, trăng không còn sáng vì đám mây "hồng" che khuất, che phủ cả đời tôi, che kín tương lai con cái chúng tôi. Tôi vô vọng như ông đã tuyệt vọng. Ngày xưa Hàn Mạc Tử rao bán trăng, ngày nay tôi rao bán nhang. Trăng của ông chẳng ai mua, nhang của tôi cũng không bán được. Một phút yếu lòng, tôi định gieo mình xuống núi, muốn được chết để không còn phải khổ. Hình ảnh của Hiền và đàn con hiện ra, tất cả nhìn tôi âu yếm, không nói gì. Một hơi ấm chợt dâng trong tôi, tôi cúi đầu hổ thẹn. Hàn Mạc Tử chỉ có một mình mà vẫn sống, vẫn làm thơ, còn tôi có cả một gia đình yêu thương, đùm bọc, tại sao lại muốn chết? Không, tôi phải sống. Sống để nhìn sự biến chuyển của thời cuộc. Mệt quá, tôi ngủ thiếp đi và thức dậy trong nắng ấm và tiếng chim ca.

Sáng hôm sau tôi lần về phía chợ mũi Né bán hết những thẻ nhang trên vai và đón xe về Sài Gòn. Nằm nhà dưỡng sức một tuần, tôi tiếp tục vác bị đi về miền Tây bán nhang. Bắc Mỹ Thuận lúc nào cũng tấp nập người đi, đò qua sông Tiền Giang ngày đêm không ngừng nghỉ. Nơi đây trước kia cũng là địa bàn hoạt động của phe cộng sản, biết bao gia đình đã theo họ chống lại chính quyền miền Nam, giờ đây cũng đang khổ cực kiếm cơm kiếm áo như chúng tôi.

Ngày xưa người ta theo phe cộng sản chỉ vì ước mong xây dựng một chế độ đẹp hơn cái họ đang sống, nhưng tất cả đều lầm. Xã hội ngày nay là một xã hội không có tự do, nó là chế độ độc tài cộng sản. Hitler đã từng nói với Goebels, bộ trưởng thông tin, nói mãi một điều sai thì nó sẽ thành sự thật. Cộng sản nói mãi về cái xấu xã hội miền Nam, riết rồi nhân dân cũng tin và nghe theo họ. Khi biết rõ sự thật thì tất cả đều đã muộn.

Càng xuống đến miền tận cùng đất nước, mũi Cà Mau, đời sống càng cùng cực hơn. Nơi đây trước kia là chiến khu cộng sản, giờ đây cũng không thoát đai nạn, thậm chí còn nghèo khổ hơn những nơi khác. Bán nhang ở đây thật khó, không phải người dân không muốn mua nhưng vì không có tiền để mua. Ưu tư của họ là được sống sót qua cơn khó này, họ không còn trông mong gì nơi chính quyền này cả. Bán không được gì và muỗi nhiều quá, tôi ra đón xe về lại Sài Gòn. Tôi dừng lại ở chợ Mỹ Tho bán cho hết các thẻ nhang mới đón xe trở về. Đến thành phố trời đã 10 giờ tối, không còn xe về nhà nên tôi ngủ lại tại bến xe Chợ Lớn.

Đêm hôm đó là đêm kinh hoàng. Khoảng một giờ khuya, công an ùa vào bến xe bắt khoảng 350 người. Họ không cần hỏi giấy tờ gì cả, cứ thấy người ngủ bờ ngủ bụi là bắt. Thanh niên và phụ nữ sau đó bị đưa về trại giam Bố Lá lao động, người già cả và tàn tật thì đưa về "nhà nuôi Thị Nghè". Trong số đó có hai người vợ của phế binh mới chết nên phải vào bến xe làm nghề giác hơi cho khách để kiếm tiền nuôi con. Hai chị quả phụ này, người thứ nhất có ba đứa con nhỏ, có đứa mới sanh được hai tháng, hai đứa còn lại mới 7 và 8 tuổi; chị thứ hai cũng có hai đứa con, một đứa 9 tuổi đứa kia 10. Công an bảo hai chị phải giao mấy đứa con cho "nhà nước" nuôi còn hai chị phải đi lao động, hai chị này nhùất định không giao, cố ẵm con giữ chặt vào lòng. Toán công an nhào tới gỡ tay hai chị ra, giựt mấy đứa nhỏ đưa vội lên xe chở về "nhà nuôi" Gò Vấp. Hai chị bất lực chỉ biết khóc, chửi bới một hồi rồi cũng bị tống lên xe. Thấy cảnh bất công và đau lòng này, tôi liền ngồi dậy chống nạng bước ra chỉ choœ:

- Tụi mày là quỷ hay sao mà ác quá vậy? Không biết thương người hả? Tụi mày không thấy người ta là đàn bà có con mọn sao mà tàn nhẫn quá vậy? Đúng là đồ súc vật!

Đám công an sừng sộ nhìn tôi, một thằng nhào tới đá vào hông tôi một cái, nhiều tên nhảy tới đánh hôi, tôi bị té sấp xuống đất. Không biết một thằng nào đó chạy tới cầm cây quất vào đầu tôi mấy cái, tét cả da đầu, máu tuôn xối xả. Tất cả những người bị bắt bị đưa về "nhà nuôi" Thị Nghè. Những anh em phế binh bị nhốt trong phòng giam tập thể. Còn tôi thì bị biệt giam, căn phòng nhỏ hẹp, chật chội và hôi thối. Tôi bị cụt hai chân mà còn phải khòm lưng để ngồi và nằm cũng khó khăn. Nói là nhà nuôi nhưng thực tế là nhà giam, chung quanh là hàng rào kẽm gai, có công an gác cửa. Mỗi ngày họ cho ăn hai chén cơm nhỏ và một ly nước uống. Sau hai tuần lễ biệt giam tôi bị kiệt sức, không còn ăn uống được gì nữa nên quản giáo mới đưa tôi ra phòng tập thể, tại đây tôi được anh em chăm sóc tôi nên từ từ tỉnh lại.

Khi vào phòng tập thể, tôi mới biết có khoảng hai trăm thương phế binh bị giam tại đây. Phòng giam quá nhỏ nếu nằm hết thì không có chỗ, do đó ngày cũng như đêm anh em thay phiên nhau đứng, nằm. Về thức ăn thì mỗi ngày quản giáo trại cho ăn cơm với khô mực sình thúi, đáng cho heo ăn, và ăn cũng chẳng no. Các anh em phải uống thêm nhiều nước để bớt đói, nhiều người đã chết vì bệnh kiết lị. Thêm vào đó, phòng giam quá hẹp và bít bùng, lỗ thông hơi quá nhỏ thiếu dưỡng khí, nên mỗi đêm có một vài người quá yếu sức bị chết ngộp. Xác những người bất hạnh được bó trong mảnh chiếu rồi chôn vội vàng ở phía sau trại.

Trường hợp bị bắt của mỗi anh em phế binh cũng rất khác nhau. Một anh kể rằng một đêm nọ ba anh em phế binh đang ngủ trong nghĩa địa Phú Lâm, trời mưa gió suốt đêm, tấm bạt nylon mong manh che không nổi sức gió, một anh đã chết vì lạnh. Sáng hôm sau, hai anh em còn lại ra phường báo cáo sự kiện rồi phường bắt đưa vào đây luôn. Một trường hợp tương tự do một anh khác kể lại là một sáng đang đi bán nhang cùng với một người bạn, anh này bị chóng mặt nên phải ngồi dựa gốc cây nghỉ và nói sẽ đi sau, anh kia đi bán đến 2 giờ chiều trở lại gốc cây tìm bạn, thấy bạn mình vẫn còn nằm ngủ, anh nắm vai lắc mạnh thì anh kia đã tắt thở từ hồi nào, xác cứng đờ. Anh ta vội vàng ra phường báo cáo thì bị người ta bắt đưa luôn vào đây, anh đã ở trại giam này hơn mười tháng nay.

* * *

Tôi bị giam tại đây đã năm tháng, gia đình tôi không có tin tức gì của tôi, tưởng tôi mất tích nên đã đi tìm khắp nơi, hỏi thăm các bạn bè không ai biết tôi ở đâu. Một hôm tôi nghĩ ra cách liên lạc với gia đình bằng cách nhờ một anh bạn cũng là phế binh có gia đình thăm nuôi mua cho một tờ giấy carô gói vào thức ăn cho anh, tôi xin tờ giấy đó để viết thư báo tin cho gia đình. Anh này nói:

- Ở đây họ cấm viết thư thì làm sao gia đình tôi đem viết vào được?

- Khỏi cần có viết, anh cứ nói gia đình gói tờ giấy carô trắng vào thức ăn mang vào cho anh là được rồi. Chuyện viết cách nào thì anh khỏi lo.

Tuần sau, vợ anh bạn này đến thăm nuôi, có mua một ổ bánh mì gói giấy carô đem cho anh ta ăn và cho tôi tờ giấy đó. Nhận được giấy, tôi giấu trong lưng quần rồi xin đi vệ sinh, trong nhà cầu tôi lấy một cây kim chích vào ngón tay cho chảy máu rồi kim chấm vào máu đó viết vội vài chữ. Sau đó tôi xếp nhỏ tờ giấy lại, nhờ anh bạn kia đưa cho vợ mang về cho gia đình tôi. Tuần sau, vợ tôi vào thăm và mua cho tôi năm nải chuối cùng mấy cục đường táng, tôi chia cho anh em mỗi người một cục đường và một trái chuối cho đã thèm, có người đói quá ăn luôn cả vỏ chuối. Tuần lễ tiếp theo, vợ tôi vào làm giấy bảo lãnh nói rằng tôi đi mua bán làm ăn chứ không phải là thành phần "tệ nạn xã hội". Giám thị nhà giam nói với vợ tôi rằng không thể cho tôi về được vì tôi đã đánh công an "trọng thương" khi thi hành nhiệm vụ. Thật là láo lếu, chính công an đánh tôi trọng thương chứ tôi làm gì có sức đánh công an, họ đánh tôi tét đầu, tôi chỉ vết thẹo còn đỏ hỏn vừa mới lành cho vợ tôi coi. Vợ tôi chỉ biết buồn bã đi về.

Trở về trường hợp hai chị quả phụ phế binh. Hai chị bị ngất xỉu trên xe nhưng rồi cũng bị đưa về trại Ba Thôn, huyện Hóc Môn, đi lao động. Sau khi bị giam sáu tháng không biết vì tội gì, hai chị được thả về. Họ đến nhà nuôi Gò Vấp lãnh con thì người ta nói đứa nhỏ mới sanh bốn tháng đã chết cách đây hai tháng. Hai người chết lặng một hồi rồi lạnh lùng dẫn bốn đứa còn lại đi về, một đứa bị phong giựt bị liệt suốt đời. Họ không còn nước mắt để khóc.

Riêng về phần tôi, tôi bị giám thị trại giam Thị Nghè đưa về trại giam Sông Bé. Đây là một trại giam tù hình sự nằm giữa chốn rừng sâu, tất cả tù nhân tại đây đều phải đi lao động, cuốc đất trồng khoai, bất kể là người tàn phế hay già yếu. Tôi đi một vòng tìm hiểu thời gian giam giữ của những anh em ở đây. Người thì nói đã bị giam từ 8, 9 năm nay, người khác thì 10 năm, nhưng chưa thấy trại thả ai về hết, có người nằm lại mãi mãi. Anh em chỉ cho tôi nơi ở cuối cùng của những người xấu số, đó là những mô đất cỏ mọc xanh rì, trên đó có mấy cây cọc cắm để làm dấu. Thật là vô nhân đạo.

Tôi lo lắng lo cho thân mình. Không, tôi không muốn chấm dứt cuộc đời tôi tại nơi đây. Tôi đã không bỏ xác trên chiến trường thì không có lý do gì phải bỏ xác tại nơi đây. Nơi đây đúng là địa ngục, con người đối xử với con người thật là tàn độc. Nơi đây cũng có mây xanh, có tiếng chim hót nhưng không thể sánh với xã hội mà con người có được tự do. Mây nơi đây lạnh lùng, trời nơi đây lạnh lẻo, gió nơi đây độc địa. Đêm đêm lén nhìn ra lên trên trời, sao tôi chỉ thấy có một ngôi sao nhuộm màu máu đỏ. Ôi, ghê rợn. Không, tôi không thể bỏ xác tại nơi đây.

Loay hoay suy nghĩ lung tung, tôi cũng đã ở nơi đây hơn bốn tháng, sống sót trong những điều kiện này thật là khó. Thời gian đó cũng đủ cho tôi tìm đường thoát hiểm. Tôi quan sát tìm hiểu một số người, thật ra là muốn tìm bạn "đường rừng". Trong chế độ giam cầm của cộng sản, người ta thường dùng mồi nhữ là cơm gạo để mua chuộc những người nhẹ dạ làm ăn ten báo cáo ban quản giáo trại về những "âm mưu" trốn trại. Rất tiếc là cũng có nhiều người trong hoàn cảnh khốn cùng như nhau lại cam tâm làm những điều hèn hạ đó, nhưng phần lớn những thành phần này là đám thanh niên trẻ can tội hình sự, cướp của giết người. Họ được ban quản giáo trại ưu đãi giao cho những chức vụ trật tự trong các phòng giam và thường xuyên báo cáo lên ban quản giáo những người họ không ưa.


Sau một thời gian nghiên cứu, tôi tìm được Mạnh, một phế binh Biệt Kích Dù mù hai mắt, lớn con, khỏe mạnh. Tôi mở đầu câu chuyện.

- Tôi đến gặp anh để tìm cách trốn khỏi nơi này.

- Tôi thì mù hai mắt, anh thì cụt hai chân, làm sao trốn trại được. Nghe anh nói tôi cũng muốn lắm, nhưng sao giống chuyện thần thoại. Vả lại trại này ở sâu trong rừng, phải đi hơn 20 cây số mới ra đường lộ. Chưa phải hết, ra đến lộ còn phải qua ít nhứt ba trạm kiểm soát mới tới con lộ cái.

- Việc đó thì tôi đã biết rồi. Vấn đề tôi muốn đề cập với anh là mình phải quyết tâm, phải hy sinh nếu cần. Nếu anh đồng ý thì mình xúc tiến ngay.

- Tôi cũng có ý này từ lâu. Tôi cũng để ý tìm người để nói về chuyện này nhưng chưa dám thổ lộ cùng ai. Ỏ đây ăn ten nhiều lắm, tôi không tin ai cả. Tôi cũng đã chú ý tới anh nhưng chưa dám thố lộ. Bây giờ thì mình cùng chung ý hướng, tôi yên tâm. Nếu anh phản tôi mà báo cáo lên quản giáo trại thì tôi cũng đành cam chịu. Nhưng trong anh em mình ai mà làm vậy, mình tuy là phế binh nhưng cũng phải có tự hào chớ. Ai thèm cúi đầu trước kẻ thù. Tôi đồng ý. Anh biểu gì tôi cũng nghe.

- Tốt. Bây giờ tôi chỉ cần anh giúp tôi kiếm một sợi dây mây dài khoảng 20 mét và một cái hộp quẹt là đủ rồi.

- Hộp quẹt thì tôi có, nhưng sợi dây mây để làm gì?

- Nơi này trước năm 1975 tôi thường đi hành quân qua đây, có sợi dây mới vượt qua suối được. Anh làm ở tổ đan mây, có thể giấu giếm mỗi ngày một ít rồi đan thành một sợi dây thừng. Anh ráng giấu một nơi nào đó, khi nào sợi dây đủ dài thì hai đứa mình chờ trời tối sẽ trốn trại ra đi. Anh còn khỏe mạnh có thể cỏng tôi, thân tôi nhẹ chắc anh không mệt lắm đâu. Còn tôi thì mắt sáng, làm bánh lái chỉ đường anh đi, tôi bẻ đầu anh đi hướng nào thì anh đi hướng đó. Nhớ là khi đi đường mình không được nói chuyện với nhau. Tai vách mạch rừng khó mà đề phòng. Anh có cần gì thì ra hiệu cho tôi cúi đầu xuống nói nhỏ vào lỗ tai.

Thế là Mạnh đồng ý, chúng tôi lén lút chuẩn bị, không dám báo tin một người nào khác, sợ bị lộ. Một đêm nọ, sợi dây mây đã đủ dài để hai chúng tôi lén từ từ bò ra ngoài vòng rào, rồi anh Mạnh cỏng tôi đi. Hai chúng tôi đi trong im lặng. Đi được một ngày, đến chiều thì đói quá nên tôi nhổ trộm khoai mì rồi vào rừng sâu tìm củi nướng khoai. Tối hôm đó tôi bảo Mạnh leo lên cây ngủ vì đây là Chiến Khu Đ, cọp nhiều lắm. Chúng tôi tiếp tục đi, đi suốt hai tuần rồi mà vẫn chưa tìm được con lộ đất đỏ dẫn ra đường cái. Ngày đi đêm nghỉ, gặp gì ăn đó, củ rừng uống nước suối, bạ đâu ngủ đó. Một sáng nọ, chúng tôi gặp một ông già đang đánh xe bò chở cây trên một con đường đất trong rừng. Chúng tôi sửa lại áo quần ngay ngắn, giả bộ tới hỏi.

- Thưa bác, chúng cháu muốn ra đường lộ đón xe về Sài Gòn.

Ông già nhìn Mạnh cỏng tôi một cách thương hại rồi cũng chỉ đường.

- Các chú ở trong trại kia trốn ra phải không. Các chú đi lạc đường rồi, phải quành ngược lại. Cứ đi theo hướng Nam, khoảng 12 cây số nữa mới ra đến lộ. Cẩn thận đó nghe không.

Mừng quá, ông già còn móc trong bị cho hai chúng tôi mỗi người một khúc bánh chuối. Chúng tôi cảm ơn rối rít rồi quay trở lại, theo hướng mà ông già vừa chỉ. Chúng tôi đi cả ngày lẫn đêm, dưới ánh trăng và trong ánh nắng. Ngày hôm sau, khoảng 3 giờ chiều, nghe tiếng xe chạy chúng tôi tiến thẳng về hướng đó. Lúc này Mạnh đã yên tâm nên không còn dè dặt nói lớn tiếng:

- Anh bẻ lái cẩn thận một chút. Hồi hôm anh gấp quá bẻ bậy bạ làm tôi húc vào cành cây, đầu sưng mấy cục rồi nè.

Tôi ừ à cho qua chuyện, đầu óc chỉ nghĩ làm sao ra đến đường lộ đón xe về nhà mà không bị bắt trở lại. Chúng tôi ra được con lộ cái, nằm sát người xuống đám cỏ rậm bên bờ đường. Thỉnh thoảng nghe tiếng xe từ xa chạy tới, tôi ngóc đầu lên nhìn. Cuối cùng chúng tôi cũng đón được chiếc xe đò đang chạy tới. Gặp bà chủ xe tốt bụng, tôi kể lại chuyện "đường rừng" và hoàn cảnh chúng tôi, bà ta không những thông cảm mà còn dặn lơ xe ghé mua cho chúng tôi mỗi đứa một ổ bánh mì ở một chợ bên đường. Hành khách trên xe ai nghe cũng thương, mỗi người gom góp một ít tiền cho chúng tôi để khi về đến Sài Gòn có tiền đón xe về nhà. Chuyện kinh hoàng trong trại tù của tôi tới đây tạm chấm dứt.

* * *

Chiến hữu cùng các ân nhân ơi,

Con tàu định mệnh năm xưa đã lướt sóng vượt trùng dương, qua muôn trùng bất hạnh, đã đưa các chiến hữu cùng ân nhân đến bến bờ hạnh phúc. Cũng rất nhiều người không may đã để lại thân xác trong lòng biển cả. Thử thách nào trong đời ai cũng một lần đi qua, các chiến hữu cùng quí ân nhân đã may mắn vượt qua còn chúng tôi vẫn ì ạch ở lại. Tôi tin rằng các chiến hữu cùng quí ân nhân không quên quá khứ và nhất là không quên những đồng đội cũ chẳng may bị thương tật. Anh em thương phế binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, sống sót sau cơn đại họa, ngày đêm sống trong hang cọp, đối phó từng phút từng giây trước nanh vuốt của kẻ thù, cuộc sống không phải dễ dàng. Mong rằng các chiến hữu cùng quí ân nhân tiếp tục nới rộng vòng tay kéo chúng tôi ra khỏi hố sâu vực thẳm, nhất là giúp chúng tôi tìm lại một chút nhân phẩm trong cuộc sống. Cầu chúc các chiến hữu cùng quí ân nhân muôn vàn hạnh phúc.

Viết lại theo lời kể của Lưu Tử