Thursday, December 8, 2011

Chương 15: Thay lời kết


Thưa quí vị ân nhân,

Thưa quí vị trong giới truyền thông,

Chương trình cứu trợ thương phế binh Việt Ham Cộng Hòa, phát động từ cuối 1993 đến nay đã đạt nhiều thành quả tốt. Ngoài mục đích vật chất là giúp các anh em thương phế binh bị cụt chân tay có một phương tiện di chuyển dễ dàng hơn trong việc sinh sống, chương trình còn có mục đích tinh thần là mang lại nhân phẩm cho người bất hạnh.

Ước muốn giúp đỡ các anh em phế binh tại Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam đã đến với tôi từ rất lâu, nhưng mãi đến gần đây tôi mới có điều kiện thực hiện ước nguyện đó. Đời sống và danh dự của các anh em phế binh trong nước không ngừng ray rứt tâm tư của tôi khi mỗi ngày tôi cảm thấy mình đã được cuộc sống dành cho quá nhiều may mắn. Tâm trạng này, theo tôi, cũng là tâm trạng của rất nhiều người Việt Nam khác hiện đang định cư tại hải ngoại. Không ai có thể yêu quê hương đất nước mà không yêu chính đồng bào ruột thịt của mình, nhất là những người đang bị thua thiệt trong cuộc sống. Cũng như trong một gia đình, đứa con bị tàn tật càng phải được dành cho nhiều thương yêu và đùm bọc hơn nữa. Những anh em này đã hy sinh một phần thân thể của mình để bảo vệ miền Nam thân yêu cho gia đình tôi, và nhất là bản thân tôi, cũng như cho nhiều người khác có cuộc sống yên ấm trong suốt cuộc chiến vừa qua. Đền ơn đáp nghĩa những ân nhân này là bổn phận và là trách nhiệm của bất cứ ai may mắn thoát ra nguyên vẹn sau một cuộc chiến đẫm máu như cuộc chiến tranh Việt Nam.

Ý tưởng này đã hướng dẫn tôi thành lập hội "Aide aux mutilés de guerre du Vietnam" (Hội cứu trợ những nạn nhân chiến tranh Việt Nam) hồi tháng 2 năm 1994. Với khả năng hạn hẹp của mình, tôi tự hứa sẽ gửi bằng mọi cách 100 xe lăn trong vòng hai năm cho những phế binh bị cụt hai chân tại Việt Nam. Và, chỉ sau khi thực hiện được tham vọng này, lương tâm tôi mới bớt ray rứt mỗi khi nhắc đến quê hương tổ quốc.

Sau khi trao đổi với bạn bè và thân hữu, nhiều người nói tôi là quá lý tưởng hoặc quá liều lĩnh. Lấy tiền đâu ra để làm chuyện này, biết ai là phế binh thiệt, ai là phế binh giả, ai là phế Việt Nam Cộng Hòa, ai là phế binh cộng sản, v.v... Đối với tôi, bất cứ người tàn phế nào cũng cần được giúp đỡ, nhưng trong khả năng và điều kiện hiện có tôi chỉ có thể lập kế hoạch giúp những anh em phế binh Việt Nam Cộng Hòa trước, kế mới đến những thường dân bị thương tật vì chiến tranh. Theo con số tôi biết được, hiện có hơn 40.000 phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang còn sống trong nước, giúp được hết những anh em này đã là chuyện đội đá vá trời rồi, do đó không thể lo toan cho những hoàn cảnh khác.

Những tháng đầu tiên (tháng 12-1993 và tháng 1-1994), sau khi gởi tặng bốn xe lăn cho anh em phế binh bị cụt hai chân trong nước, tôi nhận được nhiều thư cảm ơn và xin giúp đỡ khác. Lời lẽ thống thiết trong các lá thư càng dục tôi tiến hành chương trình trên một qui mô rộng lớn hơn nữa vì một mình không thể cáng đáng hết. Cơ hội đã đến khi Nguyễn Văn Huy, một người bạn thân, có ý định phỏng vấn và giới thiệu chương trình cứu trợ phế binh Việt Nam Cộng Hòa trên báo Thông Luận (Paris), số tháng 5-1994. Sau đó, chính Nguyễn Văn Huy đã giới thiệu chương trình cứu trợ này đến các cơ quan truyền thông đại chúng Việt ngữ khác tại hải ngoại, từ đó chương trình được sự hưởng ứng mạnh mẽ của rất nhiều ân nhân ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có cả cộng đồng người Việt tại Colombie, Châu Mỹ la-tinh. Kết quả đầy khích lệ này đã có được là nhờ sự tiếp tay đắc lực của rất nhiều hội đoàn thiện nguyện của người Việt tị nạn trên khắp thế giới, đặc biệt là tại Pháp, Bỉ, Canada, Hoa Kỳ và Úc. Tại mỗi nơi các hội đoàn này tự động tổ chức các buổi sinh hoạt gây quỹ để tài trợ chương trình cứu trợ thương phế binh tại quê nhà với những kết quả đầy khích lệ. Tôi xin được chia sẻ nỗi vui này với tất cả những người thiện tâm.

Vì là một chương trình nhân đạo nên chính quyền cộng sản, tuy có làm khó dễ một số thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, cũng không thể cản trở sự giúp đỡ này. Chính phong trào này đã gây sôi nổi ngay trong nội bộ chính quyền cộng sản tại quốc nội. Từ tháng 7-1994, chính quyền cộng sản đã tung ra một chương trình qui mô nhằm giúp đỡ những người đã vì họ mà hy sinh: gia đình thương binh, liệt sĩ, các bà mẹ cách mạng có con hy sinh trong cuộc chiến. Có những người bị bỏ quên từ hơn 30 năm qua từ thời chống Pháp, hoặc gần 20 năm qua sau 1975, bổng nhiên được chính quyền lập danh sách tặng nhà cửa, tiền bạc hay quà cáp. Các ủy ban nhân dân thành phố, đoàn thanh niên cộng sản, hội phụ nữ... đã dùng báo chí trong nước làm ồn ào chương trình và tổ chức nhiều đoàn người đích thân mang xe lăn, nạng chống và tiền bạc đến tặng cho hơn 60.000 gia đình thương binh liệt sĩ của họ. Chương trình này không có gì đáng trách, nhưng sự giúp đỡ chỉ trong vòng đai thân nhân của đảng và chính quyền cộng sản. Những "căn nhà tình nghĩa", tiền bạc và quà cáp chỉ được tặng cho những người thuộc diện gia đình cách mạng hoặc có nhiều thành tích trong cuộc chiến tranh vừa qua. Những anh em bộ đội khác, bị cụt chân tay, vì là thành phần "nghĩa vụ" thấp cổ bé miệng không có vây cánh, không được nhắc tới; họ tiếp tục sống lây lất trong cảnh lầm than thiếu thốn như những anh em phế binh miền Nam cũ. Nhiều gia đình thương binh liệt sĩ còn bị chính những người trong chính quyền, những "đồng chí" cũ, tống tiền để hồ sơ mau được chiếu cố.

Có nhiều trường hợp, qua những lá thư chúng tôi nhận được, chính những anh em phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã cưu mang những anh em phế binh từ chiến trường Kampuchea trở về. Họ đã đồng cam cộng khổ, chia sẻ với nhau từng niềm vui, nỗi nhục của kiếp ăn xin. Đây là những tấm gương cao cả. Trong sự đau khổ họ đã vượt lên trên sự thù hận để chia sẻ chỗ đứng bạc bẽo trong một chế độ mạnh được yếu thua. Hòa giải và hòa hợp không còn là những mỹ từ đầu môi chóp lưỡi, chính những anh em phế binh cũ đã thực hiện tinh thần hòa giải ngay trong cuộc sống, cho dù là cuộc sống nghèo hèn, với những anh em phế binh mới. Cũng xin nói thêm, trong cuộc chạy đua marathon bằng xe lăn tổ chức tại Sài Gòn hồi cuối 1994, những anh em phế binh miền Nam không thắng vì tuổi già sức yếu (đa số đã trên 40 tuổi), không tranh sức nỗi với anh em phế binh về từ Kampuchea, trẻ và khỏe mạnh hơn. Nhưng đây là một thể hiện độc đáo về tình anh em tìm lại.

Có người hỏi tôi có giúp bộ đội cộng sản tàn phế hay không? Trước khi trả lời, tôi xin thưa là dư luận trong nước rất thông cảm thảm trạng của những người tàn phế. Trong bối cảnh một xã hội tha hóa mà sự lường gạt, chụp giựt, mạnh được yếu thua là phong cách sinh hoạt, làm sao những người bị cụt chân cụt tay, có người bị cụt cả chân lẫn tay còn thêm mù cả hai mắt, có đủ điều kiện để tranh tìm miếng sống? Do đó chỗ đứng của đại đa số anh em phế binh là hành khất và, danh dự hơn, bán nhang, bán vé số dạo. Người trong nước không phân biệt ai là phế binh thời trước, ai là phế binh thời sau khi nhìn những thân xác què cụt đang bò lết trên khắp nẽo chợ xin ăn. Giúp thương phế binh là một vấn đề nhân đạo, đã là nhân đạo thì không còn màu sắc chính trị. Trên thực tế, cho đến nay, trong hơn 10.000 đơn xin trợ cấp mà chúng tôi nhận được, chưa hồ sơ nào có xuất xứ từ quá khứ từ thành phần bộ đội cộng sản. Theo chỗ tôi biết, một là họ không biết có sự cứu trợ từ hải ngoại, hai có lẽ là do mặc cảm. Dù có xuất thân từ phía nào, đời sống của những anh em này đều tăm tối và tủi nhục.

Nhiều người chỉ trích tôi là ngây ngô, du học lâu năm không biết sự tráo trở của người cộng sản, họ là những người có tâm địa ma giáo, tráo trở... Tôi xin thưa, thà cho lầm một phế binh giả mạo còn hơn để một phế binh thật mòn mỏi đợi chờ hay chết tức tưởi vì không tiền chữa trị, chúng ta không có quyền bức tử các thương phế binh Việt Nam Cợng Hòa lần thứ hai. Thật ra cùũng có thể có một số hồ sơ giả mạo để xin tiền trợ cấp nhưng, theo chỗ tôi biết, cho đến giờ này chúng tôi chưa gặp. Hơn nữa, những đại diện của chúng tôi trong nước, đa số là những nạn nhân của cộng sản, khi xét duyệt và gởi sang đây hồ sơ những người cần được cứu trợ, chúng tôi tin rằng đó là những hồ sơ đáng tin cậy. Mỗi hồ sơ thường có đính kèm đầy đủ chứng từ, chứng thương và hình ảnh mới nhất của người thương binh.

Tại hải ngoại, một ân nhân muốn giúp một phế binh thường xin chúng tôi gởi trước cho họ hồ sơ và lý lịch người đó (với tất cả hình ảnh, giấy chứng thương và chứng từ) sau đó mới quyết định giúp. Có người còn mang cả hồ sơ về trong nước quan sát tận mắt rồi mới giúp, và sự giúp đỡ này thường cao hơn số tiền mà chúng tôi dự trù. Về việc trao tặng xe lăn, chính đại diện của chúng tôi trong nước, sau khi đã nhận tiền trợ cấp từ hải ngoại, đặt mua xe lăn sản xuất trong nội địa rồi đích thân mang đến tận tay người nhận, do đó khó có thể có sự "thất thoát" hay nhầm lẫn, vì người này có quyền rút lại quyết định trao tặng nếu phút chót thấy không đúng đối tượng. Về hồ sơ xin cấp tiền, chúng tôi gửi bưu phiếu đích danh người phế binh cần sự giúp đỡ, những ai mạo nhận không thể lãnh thay. Nói chung, việc xét duyệt và cấp phát có những điều kiện bắt buộc của nó, khó có thể có sự gian lận. Đây là một vấn đề kỹ thuật.

* * *

Đời sống của những anh em phế binh như thế nào? Tôi xin mạn phép đưa ra một vài hình ảnh.

Về trường hợp những anh em phế binh cụt hai chân, trước đây có người phải di chuyển trên hai ghế đẩu, có người phải cột hai mảnh vỏ xe hơi cũ nơi vết thương, từ sáng đến tối lê lết từ đầu đường này đến xó chợ nọ để xin ăn, tối đến trải giấy báo ở một góc nào đó trước một căn nhà để ngủ qua đêm. Họ đã chịu đói, chịu lạnh từ ngày này qua tháng nọ. Có người tìm về các nghĩa trang để ngủ. Ranh giới giữa người chết và người sống đối với họ không có gì là cách biệt, họ đã sống như những người chết trong suốt thời gian qua. Cuộc đời đã hắt hủi họ. Hai mươi hai năm qua, đối với những con người bất hạnh này, không phải là một cơn gió thoảng. Nghèo khó, đau khổ và tủi nhục đã tích tụ thành những lớp chai trong tâm khảm và trên thân thể họ. Nay đến lúc chúng ta cạy phá để nụ cười nở lại trên những vành môi khô héo, dù có muộn màng.

Bị thương tật vì chiến tranh không phải là một tội lỗi, vậy mà họ đã sống như những tội phạm trong suốt thời gian qua. Sau ngày 30-4-1975, những anh em phế binh đang còn nằm điều trị bị đuổi ra khỏi các quân y viện. Nhiều anh em đã phải dùng lại những cuộn băng rách nát để băng bó các vết thương chưa lành, có người đã chết sau đó vì thiếu thuốc trụ sinh hay vết thương bị nhiễm độc. Trước kia, nếu có ai mạo muội ân cần thăm hỏi họ, lập tức người đó sẽ bị công an hạch hỏi, tình nghi cấu kết với "tàn dư Mỹ Ngụy". Hiện nay những con người xấu số này, mỗi khi có mặt ở đâu thì bị người ta xua đuổi đến đó, có khi còn bị đánh đập hay thóa mạ tục tằng. Người ta quên rằng chính những người mà họ đang xua đuổi đó đã bỏ một phần thân thể để cho hôm nay họ được bình yên vui sống. Thử thay đổi chỗ đứng, họ là những phế binh, liệu có đủ kiên nhẫn chịu đựng những lời thóa mạ và khinh miệt đó không?

Trước sự bạc đãi của đồng loại, các anh em phế binh chỉ còn một cách là tương thân tương trợ lẫn nhau. Họ thường mỉa mai nhắc lại một câu phong dao xưa "lá lành đùm lá rách" nhưng chỉ thay một chữ thành "lá rách đùm lá rách". Chúng ta thử tưởng tượng trong cảnh trời mưa tầm tã, những anh em phế binh cùng nhau chia đĩa cơm thừa. Họ dùng bữa cơm chan hòa nước mưa cùng nước mắt, đó cũng là những bữa ăn thường ngày. Mặc cảm đã đưa họ đi khá xa, nhiều anh em sẵn sàng phản ứng lại những ai khinh họ ra mặt. Chúng ta nên thông cảm. Đó là ngón đòn tự vệ cuối cùng của những người không còn gì để mất.

Cái chết có lẽ là ám ảnh mạnh nhất đối với người phế binh. Nhiều người đã viết cho tôi nói rất muốn được chết cho nhẹ gánh đời nhưng không được, họ còn mẹ già phải nuôi, đàn con thơ cần được che chỡ. Có anh nói nếu chẳng may bị chết bất tử, gia đình cũng không có tiền để mai táng. Có người muốn tự tử bằng độc dược nhưng không đủ tiền để mua và mua cũng không ai bán... Ai rồi cũng có ngày phải chết nhưng trong xã hội Á Đông, vai trò của người đàn ông trong gia đình rất là cần thiết cho dù chỉ còn là biếu tượng. Hơn nữa các anh em phế binh này phải sống để làm chứng nhân về sự tàn ác của con người đối với đồng loại.

Có nhiều người vợ phế binh đã cật lực ngày đêm thay chồng nuôi con, đã lao lực kiệt quệ đến chết, để lại cho người chồng tàn phế một đàn con bơ vơ trước một tương lai đen tối. Có những mẹ già, không quảng nắng mưa, ngày đêm gánh gồng ra chợ mua bán nuôi con trai bị tàn tật và đàn cháu nhỏ. Nếu muốn tìm những tấm gương yêu thương và chịu đựng, thật khó ai so bì với những người đàn bà cao cả này. Cuộc sống của họ chẳng có gì là vinh quang chỉ toan là tủi nhục. Nước mắt đà chảy cho cuộc chiến vừa qua không ai đổ nhiều bằng những người mẹ này. Thêm vào đó là sự chịu đựng, họ đã chia sẻ với người con, người chồng tàn tật tất cả nỗi đau của cuộc đời. Đó là những đốm sáng trong một bức tranh đen tối.

Không! Lương tâm không cho phép chúng ta thờ ơ trước những cảnh đời đen tối đó. Không thể để những anh em phế binh này và gia đình họ tiếp tục bị đày đọa trong tủi nhục. Giúp đỡ họ, tìm cách đưa họ ra khỏi tối tăm là bổn phận của lương tâm. Nếu chúng ta đã từng biết câu "lá lành đùm lá rách" thì những "lá rách" này cần phải đùm bọc, an ủi trước hết và nâng đỡ họ sớm tìm lại danh dự trong cuộc sống. Chúng ta không thể tiếp tục để "lá rách đùm lá rách" như họ thường mỉa mai. Chúng ta không thể tiếp tục sống một cách dửng dưng như những ngày đã qua, nhất là những Việt kiều về thăm đất nước.

Tôi xin trích dẫn một đoạn trong thư vừa nhận được từ một phế binh: "Cái khổ của anh em chúng tôi không phải là đói lạnh, vì bản năng sống còn của con người giống như của muôn thú rất là mãnh liệt. Cái chua cay, tủi nhục là vợ chúng tôi phải đi ở đợ cho "giai cấp mới" không ra gì, con chúng tôi thất học, phải đi bới rác phụ giúp gia đình. Thảm trạng của chúng tôi, chúng tôi đã kêu trời trên 20 năm nay, nào có ai thấu? Nước mắt chúng tôi càng trào khi nhìn những Việt kiều đốt pháo cả trăm đô-la, và tiêu xài cả ngàn đô-la cho một đêm tiệc. Dường như các thế hệ sau này và các Việt kiều không còn muốn thấy những thân hình què chân, cụt tay, đui mù trên phố phường, làm ô nhiễm tầm nhìn của họ...".

* * *

Quí ân nhân kính mến,

Quí vị đã chia sẻ với chúng tôi chương trình cứu trợ thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trong nước, quí vị đã dành dụm những số tiền nhỏ để làm lớn niềm vui của người bất hạnh. Quí vị đã từng đích thân về nước thăm hỏi và cứu trợ trực tiếp từng gia đình phế binh, quí vị đã nhìn tận mắt niềm vui chân thật của những con người mộc mạc, quí vị đã giúp họ những món quà quí báu. Đó là niềm vui và là niềm hãnh diện chung của người Việt Nam. Quí vị đã không quảng ngại khoảng cách, quí vị đã không hề thắc mắc về số tiền quí vị đã gởi chúng tôi khi ủng hộ chương trình. Những tấm lòng quảng đại đó không có ngôn từ và cách viết nào có thể diễn đạt đầy đủ. Tôi chỉ mượn lời của một cựu sĩ quan phế binh Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ sự biết ơn đó:

"...Được thư quà của ân nhân, không sao cầm được nước mắt, cổ họng nghẹn ngào. Tôi quì xuống cầu xin Thượng Đế hãy trả công vô cùng cho những ai đã làm ơn cho chúng con. Những kẻ mà ở nửa vòng trái đất, không hề quen biết con. Họ đã yêu tha nhân bằng tình thương của đấng Thượng Đế ban cho họ, họ đã chia sẻ cho con mồ hơi, công sức của họ. Xin Thượng Đế hãy nhận những đau khổ của con hôm nay và mai sau, để biến thành những hạnh phúc và may mắn trả lại cho những an nhân đó".

Anh sĩ quan này, trong suốt 10 năm bị "cải tạo", đã bị liệt hai chân vì bị cùm quá lâu. Khi được thả về, anh đã lê lết khắp các thành phố tìm vợ tìm con, đã bị bắt lại và bị kết án 5 năm tù về tội "tình nghi làm gián điệp". Đến nay anh đã được tự do và đang hành nghề bán vé số dạo. Chiếc xe lăn do quí ân nhận tặng đang là nguồn hạnh phúc anh đã tìm được sau những năm tháng khổ đau mất tin vợ con. Đây chỉ là một trường hợp trong muôn vàn trường hợp. Còn nhiều trường hợp khác bi thảm hơn nữa. Nếu nói về nỗi khổ của những anh em thương phế binh, có lẽ phải cần nhiều quyển sách mới có thể diễn tả đầy đủ. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói đến một chuyện mà thôi, đó là tìm cách xoa dịu những nỗi đau của những con người khốn khổ nhưng oai hùng này.

* * *

Hiện nay, dù ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, chúng ta đều mang ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt là những anh em thương phế binh, họ là những chiến sĩ bảo vệ tự do và dân chủ cho miền Nam chẳng may bị mất một phần thân thể. Họ là những anh hùng cần được tuyên dương cho dù cuộc chiến đã tàn và bị các cấp chỉ huy hay đồng đội cũ bỏ rơi. Họ đã đối đầu với hiểm nguy trên chiến trường, đã anh dũng chiến đấu với kẻ thù, gương can đảm này cần phải vinh quang. Bất hạnh cho họ là đã dẫm phải một trái mìn hay lãnh một mảnh đạn pháo vào thân thể, tuy không chết nhưng tàn tật suốt đời: cụt chân, cụt tay, mù, điếc, điên hay bại liệt toàn thân... Giúp họ tìm lại niềm vui trong cuộc sống là trách nhiệm của những người còn may mắn như chúng ta. Nếu không đủ khả năng tài chánh quí vị cũng có thể giúp bằng cách viết thư an ủi họ, chúng tôi sẵn sàng cung cấp địa chỉ những người khát khao tình người, vì đối với họ mỗi lá thư thăm hỏi là một nguồn sinh lực mới giúp họ vượt lên mặc cảm bị bỏ rơi.

Tuy chưa biết nhau, nhưng chúng ta đã mến nhau và đang gặp nhau tại một điểm hẹn: xoa dịu nỗi đau của người khốn khó và thắp sáng tương lai đất nước. Chúng ta đang góp phần xây dựng hạnh phúc chung của dân tộc bằng hơi nóng tình người. Chúng ta phải hãnh diện và ngẩn cao đầu cùng với loài người. Tôi xin thay mặt một số anh em phế binh gởi đến quí vị đã tham gia chương trình cứu trợ lời cảm ơn chân thành, và cũng xin quí vị miễn thứ cho những người bị cụt chân, cụt tay và đui mù không thể viết thư cảm ơn và thăm hỏi, vì một lá thư gởi ra ngoại quốc trị giá bằng 4 ký gạo hay nhiều ngày ăn xin. Khi nhận một chiếc xe lăn hay một cặp nạng, người phế binh chỉ biết cảm ơn Trời Phật đã chiếu cố tới họ, vì bản thân họ chẳng có gì có thể đền đáp ơn cao cả đó của quí vị, kể cả tiền để gởi một lá thư, nhất là gia đình những anh em phế binh sống trong vùng thôn quê bị cơn bão Linda vừa qua tàn phá những mái nhà lá vốn đã xiêu vẹo.

* * *

Quí ân nhân kính mến,

Quí vị cùng chúng tôi đã đem lại một phần an ủi đến với các phế binh tại quê nhà. Chúng ta đã mang hết thiện chí và nhiệt tâm thực hiện một nguyện ước là giúp đỡ thương phế binh cụt hai chân. Chương trình đã gặp sự hưởng ứng nhiệt tình của quí vị ân nhân, chúng tôi bước thêm một bước nữa là giúp đỡ những thương binh bị cụt một chân và đui mù hai mắt và mất cả tứ chi, và sau cùng là giúp những đồng bào thiểu số mắc bệnh cùi hủi và trẻ em mồ côi tàn tật. Nói về thành quả, chúng ta đã có những thành quả tốt: hơn hai triệu quan Pháp cho năm ngàn hồ sơ (đó là thành quả của sáu hội đoàn: Hội Huynh Đệ Chi Binh và Tổng Hội Cựu Sĩ Quan Thủ Đức - Nam Định ở San José (Mỹ) hai hội ở Canada, một hội ở ĨÚc và Hội Cứu Trợ Người Tàn Phế Vì Chiến Tranh do tôi thành lập). Nhưng không vì vậy mà chúng ta tự cho phép mình được an nhiên.

Quí vị đã đến với chúng tôi từ lúc khởi đầu, chúng ta đã cùng đi một đoạn đường khá dài, nhân dịp này tôi khẩn khoảng xin quí ân nhân hãy tiếp tay đi với chúng tôi cho hết đoạn đường còn lại.

Hiện nay còn rất nhiều hồ sơ chưa được giải quyết, và hồ sơ nào cũng cấp bách. Nhiều hồ sơ gia đình tổ phụ, quả phụ, cô nhi tử sĩ hay thương binh nhẹ đang chờ được ánh sáng tình thương rọi chiếu. Cho đến nay họ chưa được sự chiếu cố qui mô nào, mặc dù sự đau đớn và khổ cực không kém các thương phế binh. Quí vị hãy vận động vòng đai thân hữu, rộng lượng đỡ đầu nhận thêm vài hồ sơ nữa tùy theo khả năng: 30 USD cho một phế binh cụt một chân, 60 USD cho một phế binh cụt hai chân.

Những số tiền vừa nói có thể là nhỏ đối với một số Việt kiều tại hải ngoại nhưng đó là những món quà lớn cho những người đang thiếu thốn trong nước. Chúng ta cố gắng dành dụm tiền tiêu xài giải trí, cúng bái nhà chùa và nhà thờ (các hình tượng thờ đâu có biết đói), vận động vòng đai thân hữu tham gia chương trình. Hồ sơ của từng phế binh sẽ được gởi thẳng đến quí vị bằng đường bưu điện nếu được yêu cầu. Khi nhận hồ sơ, quí vị có thể liên lạc hoặc gởi thẳng cho người phế binh cần được giúp đỡ. Cầu xin Đức Phật Thích Ca cùng Chúa Giê Su phù hộ gia đình quí vị.

Trước khi ngừng bút, tôi xin đưa một đề nghị cùng với quí vị là chúng ta thử suy nghĩ và trao đổi chọn ngày 1 tháng 6 mỗi năm làm Ngày Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa vì người cộng sản có ngày thương binh của họ. Sở dĩ tôi đề chọn ngày này vì nó dễ nhớ và là dịp trước khi nghỉ hè, những ai về nước thăm gia đình có thể mang tiền về tặng và thăm hỏi các phế binh trong nước. Tại hải ngoại, vào dịp này, các hội đoàn hay cá nhân quí vị ân nhân có thể tổ chức các buổi sinh hoạt gây quỹ một cách dễ dàng vì không trùng hợp với các dịp lễ lạc khác. Rất mong được đón nhận những ý kiến khác.

Thay lời cuối, tôi xin nhường lời cho đại diện phế binh Việt Nam Cộng Hòa cám ơn quí vị.

Phan Minh Hiển

No comments: